Skip to main content

DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA - LỐI ĐI NGAY DƯỚI CHÂN MÌNH




Việc phát triển doanh nghiệp theo định hướng nhỏ và vừa không còn là điều phải bàn cãi. Những chủ trương gần đây của chính phủ cùng với các chương trình hợp tác với các tổ chức quốc tế sử dụng nguồn vốn Viện trợ phát triển ODA tập trung vào hướng tạo ra sân chơi thuận lợi cho loại hình doanh nghiệp này.

Tuy nhiên vẫn còn một số e ngại về việc liệu doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) có đứng nổi trên sân chơi rộng lớn của sự hội nhập chăng? Đây cũng là sự băn khoăn của rất nhiều doanh nghiệp và nhà làm chính sách. Có những lập luận vững chắc cho vấn đế này nhìn từ các góc độ khác nhau liên quan đến sự sống còn của doanh nghiệp. Đó là:

1. Đâu là công nghệ cho SMEs: Bước và nửa sau thập niên 80s, khái niệm công nghệ sản xuất hàng loạt (Mass Production Technology) hầu như không còn được nhắc tới. Tạo lợi thế nhờ vào tăng quy mô sản xuất không còn là điều hấp dẫn cho các doanh nghiệp trước sự thay đổi như vũ bão của công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin. Tương tự thế, hiếm khi ta nghe thấy khái niệm Công nghệ hiện đại (Morden Technology) ở các quốc gia đang phát triển vì đòi hỏi đầu tư lớn, tính rủi ro cao. Cái ta thường nghe thấy khi nói về công nghệ hiện nay là Công nghệ thích hợp (Appropriate Technology). Sự thay đổi xu hướng tiêu dùng từ hàng hoá thâm dụng vốn sang thâm dụng trí tuệ đòi hỏi các sản phẩm ngày nay càng có tính Dị biệt hoá (Differential), tập trung vào những phân khúc thị trường hẹp nhằm khai thác tối đa lỗ hổng thị trường.

2. Thị trường: Việc tập trung sản xuất ở quy mô nhỏ sẽ khai thác tối đa lợi thế về tính dị biệt hoá của sản phẩm, đáp ứng từng phân khúc rất nhỏ của thị trường, giúp các doanh nghiệp tìm được chỗ đứng trên thị trường thế giới mà không phải cạnh tranh ở thế đối đầu trực tiếp. Trên cơ sở đó giảm thiểu rủi ro do biến động của thị trường.

3. Vốn: Nguồn vốn cho SMEs không đòi hỏi quá lớn do sử dụng công nghệ thích hợp, quy mô nhỏ và vừa. Thêm vào đó, do quy mô gọn nhẹ nên khả năng thu hút vốn trong dân (phát huy được nội lực) dễ dàng và nhanh chóng. Giai đoạn đầu vốn chủ yếu huy động ở quy mô gia đình, bạn bè thân thuộc. Mặt khác, việc khơi thông dòng chảy cho vốn thông qua kênh tín dụng ngân hàng cũng rất tiện lợi. (1) Trước hết giải phóng được nguồn vốn ứ đọng của hệ thống ngân hàng. (2) Các doanh nghiệp SMEs thông thường có mức sinh lợi là cao hơn các khu vực khác . Và (3) Nhu cầu vốn của SMEs là vô cùng lớn (ngân hàng đang đứng trước cầu lớn và cung cũng rất lớn do quan hệ tiết kiệm và tăng trưởng ). Đây là điểm mấu chốt của quá trình tăng trưởng nhanh và bền vững: "Nguồn lực khan hiếm của xã hội được sử dụng với hiệu suất cao nhất".

4. Xã hội: Trước hết, công cuộc Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xuất khẩu (Export Promotion) trên nền tảng phát triển SMEs không bắt quốc gia phải chịu đựng những trả giá to lớn do phải thực hiện chính sách Bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ (Infant Industry Argument) . Kế đến, các doanh nghiệp SMEs do đặc tính năng động của mình cùng với đặc thù dị biệt hoá sản phẩm nên chủ yếu là định hướng theo xuất khẩu . Định hướng xuất khẩu mang đến ba cái lợi thiết thực cho quốc gia: (1) Tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, giúp trang trải các khoản nhập khẩu để phát triển (cụ thể là hỗ trợ cho ngành nông nghiệp do cải thiện tỷ giá hối đoái giúp giảm bớt bất lợi cho đầu vào ngành nông nghiệp). (2) Đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhờ vào mức độ nhạy bén trong tiếp thu công nghệ nước ngoài. (3) Góp phần xoá đói giảm nghèo cho quốc gia nhờ vào các khoản đầu tư hiệu quả giúp nâng cao mức sống cộng đồng.

5. Tính bền vững của tăng trưởng : Bằng quy mô nhỏ và vừa, tính rủi ro được giảm thiểu trước các biến động (không bao giờ có thể lường trước) của nền kinh tế mang tính toàn cầu hoá (Globalization). Các biến động này đến từ nhiều phía như: rủi ro về thị trường, rủi ro về công nghệ, rủi ro về pháp lý, rủi ro về tỷ giá, … Mặt khác, trải qua cơn bão khủng hoảng tài chính tiền tệ cho to thấy một bài học qúy giá về tăng trưởng và bền vững. Đội quân kiến Đài Loan đã vinh quang vượt qua phong ba so với các chàng khổng lồ Chaebol đất Hàn. Cũng như thế Doanh nghiệp hương trấn (TVEs - Town and Village Enterprises) đã làm nên sự thần kỳ cho Trung Quốc trong thời mở cửa (từ sau năm 1978) .

6. Bài học kinh nghiệm : Từ những quốc gia đi trước chúng ta biết cần phải học hỏi những gì. Phá sản, chúng ta hãy làm quen với cụm từ này và nên hiểu rằng: "Phá sản trong nền kinh tế thị trường cũng như các hồng cầu trong cơ thể, những hồng cầu yếu phải chết đi để sinh ra những hồng cầu mới mạnh mẽ hơn, phát triển hơn." Đó là quy luật của phát triển .

Sài Gòn, Nov. 30th 1999
Đoàn Đình Hoàng
Brandascend consulting

Comments

Popular posts from this blog

Định
 vị 
Việt 
Nam


Việt
 Nam
 ở
 đâu 
trong 
bản 
đồ 
thế 
giới?
 Câu 
hỏi
 trở 
nên 
nóng 
bỏng 
hơn
 bao 
giờ 
hết vì 
quá 
trình 
toàn 
cầu 
hoá 
diễn 
ra 
ngày 
càng 
mạnh 
mẽ 
và 
sâu 
rộng.
Chắc 
chắn,
“ở đâu”
 hoàn 
toàn
 không 
là 
vị 
trí 
địa 
lý 
mà 
là 
trong 
chuỗi 
giá 
trị 
toàn 
cầu,
trong 
tâm
 trí
 người 
tiêu 
dùng 
thế 
giới. 
 Không 
hẹn 
mà 
gặp,
 Philip 
Kotler,
một 
chuyên 
gia 
tiếp
 thị
 tầm
 cỡ
 thế 
giới,
 và 
như 
mới 
đây 
với 
Michael 
Porter,
 chiến 
lược 
gia 
hàng 
đầu 
thế
 giới, cùng đặt ra câu hỏi này cho Việt Nam. Ai cũng biết một quốc gia cần xác định cho mình một chỗ đứng độc đáo trong nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Toàn cầu hoá, một thuật ngữ không còn xa lạ ngay cả với người nông dân Việt Nam. “Bếp ăn thế giới” ý của Philip Kotler, hay “nông nghiệp – thuỷ sản” từ Michael Porter chỉ là hai gợi ý có tính tham khảo (vì thực sự các chuyên gia bậc thầy này chưa nhận được một đơn hàng chính thức cho việc xây dựng định vị Việt Nam). Tuy nhiên, mộ

Thị trường bia, thời của tay chơi

Tay chơi nào trụ hạng? Trong cái nắng Sài Gòn tháng Tư oi người, các băng rôn quảng cáo “Zorok, hai loại lúa mạch, một vị bia” góp phần làm nóng thêm áp lực cạnh tranh trong thị trường bia tại Việt Nam. Với một thị trường có sức tăng trưởng 2 con số và sức tiêu thụ bia đầu người năm chỉ mới 18 lít/người (2006) còn ở mức thấp so với trung bình của thế giới quả có sức hấp dẫn mạnh mẽ cho bất kỳ doanh nghiệp nào. Theo quy hoạch tổng thể ngành bia - rượu - nước giải khát của Bộ Công nghiệp được phê duyệt tại Quyết định 18/2007/QĐ-BCN, ngày 08/5/2007, sản lượng bia của Việt Nam năm 2005 là 1,53 tỷ lít và sẽ gia tăng lên đến 3,5 tỷ lít vào năm 2010, mức đầu tư tương ứng trong giai đoạn từ 2005 đến 2010 là 31,809 tỷ đồng. Xem thêm đồ thị về quy hoạch ngành bia Việt Nam đến năm 2010 của Bộ công nghiệp . Trước hết, xin được điểm qua một vài gương mặt điển hình làm nên bức tranh ngành bia Việt Nam. Lâu đời và danh tiếng phải kể đến Sabeco, tổng công ty bia – rượu – nước

Tình huống trà xanh Không độ và C2

Trà xanh đóng chai (Ready-to-drink) trở thành một chủ đề được thảo luận nhiều trong thời gian gần đây. Quan sát các sự kiện liên quan đến loại sản phẩm này, chúng ta có thể rút ra được những kinh nghiệm quý báu cho hoạt động truyền thông thương hiệu. Bài viết được phân tích dưới góc độ hơi thiên về chiến lược marketing thông qua quan sát và khảo cứu của tác giả từ các thông tin thu thập từ nhiều nguồn và các điều tra trực tiếp với người tiêu dùng với quy mô nhỏ để phục vụ cho luận điểm của bài viết. Bài viết, do vậy, nên được nhìn nhận dưới góc độ quan điểm của người hành nghề marketing và mong muốn được chia xẻ các ý kiến của bạn đọc về vấn đề này. Trà xanh là một thứ thức uống phổ biến trên thế giới từ hàng ngàn năm nay, đặc biệt là khu vực châu Á như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v. Tại một số quốc gia, uống trà còn được nâng lên thành nghệ thuật và với những nghi thức đặc biệt, phức tạp. Cuộc sống hiện đại thúc đẩy ngành công nghiệp nước uống tiện dụng phát triển mạnh