Skip to main content

RỦI RO TRONG TÁI LẬP CÔNG TY


Làn sóng đổi mới của nền kinh tế Việt Nam đã tạo ra một thế hệ các “doanh nghiệp mới”. Đặc thù của các doanh nghiệp này là phát triển đi lên từ các cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ có quy mô gia đình. Do vậy, mô hình quản lý mang tính chuyên chế rất cao, mọi hoạt động điều hành công ty tập trung vào một đầu mối là chủ sơ hữu doanh nghiệp. Nhân sự có trình độ thấp, một số trường hợp có quan hệ họ tộc với chủ sở hữu. Mô hình quản lý này giúp các quyết định trong hoạt động kinh doanh được ban hành nhanh chóng, rất linh hoạt nhất là những quyết định liên quan đến giá cả đầu vào, giá bán đầu ra, các quyết định đầu tư. Và điều quan trọng không kém, đó là cảm giác an tâm khi chính chủ sở hữu công ty giám sát và can thiệp vào tất cả các vấn đề phát sinh trong doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có độ nhạy cảm cao với hoạt động đầu tư kinh doanh đã tạo dựng nên những thành tựu to lớn cho doanh nghiệp của mình và trên phạm vi rộng là sự lớn mạnh của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, khi quy mô của doanh nghiệp lớn dần lên, các hoạt động về điều hành trở nên phức tạp cả về số lượng và yêu cầu về chuyên môn quản lý. Một chủ doanh nghiệp giờ đây phải ra hàng trăm hay thậm chí hàng ngàn quyết định mỗi ngày cả về lĩnh vực mua bán, thị trường, nhân sự, hành chính, công nghệ, sản xuất, tài chính kế toán, thiết kế, v.v. Sự quá tải và quá tầm là chắc chắn xảy ra.

Ngoài ra, áp lực cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt. Một nền kinh tế đi lên từ chỗ thiếu hụt về sản lượng, sản xuất không đủ cho tiêu dùng sang nền kinh tế hàng hoá. Ở đó, người tiêu dùng bị tràn ngập trước sự phong phú của hàng hoá về số lượng, chủng loại, mẫu mã, giá cả, hình thức kinh doanh, chất lượng, v.v. Nói một cách đơn giản, quyền lực kinh tế chuyển từ nhà sản xuất sang người tiêu dùng. Sự mở cửa của nền kinh tế, cùng với làn sóng đầu tư nước ngoài và hàng hoá nhập khẩu càng làm gia tăng áp lực lên các “doanh nghiệp mới”.

Quá trình tái cấu trúc lại công ty là điều mà các doanh nghiệp hiện nay đang nhận thức khá sâu sắc và triển khai mạnh mẽ. Quyết định tái cấu trúc diễn ra mạnh mẽ nhất và có tính tiên phong nhất là bộ máy nhân lực của công ty. Các chủ sở hữu của các “doanh nghiệp mới” này hy vọng khi có bộ máy nhân lực mạnh, thì chính bộ máy nhân lực này sẽ tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ sang các bộ phận khác trong doanh nghiệp như sản xuất, kinh doanh, tiếp thị, tài chính kế toán, v.v. Họ sẵn sàng trả mức đãi ngộ cao để thu hút nhân tài, đặc biệt là giới quản lý trung cao và cao cấp từ các công ty đa quốc gia, các công ty nước ngoài. Tính chuyên nghiệp trong quản lý của đội ngũ nhân lực mới này tạo nên những chuyền biến rất mạnh mẽ trong công tác quản lý của doanh nghiệp. Tuy nhiên, những rủi ro trong quá trình chuyển đổi cũng bắt đầu xuất hiện:

1. Chi phí của việc chuyển đổi cho việc chuẩn hoá bộ máy và hình thức quản trị tiên tiến là rất cao và cao hơn nhiều so với sự gia tăng về doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp trong giai đoạn đầu (thường không dưới một năm). Từ đó phát sinh những nghi ngại, những đánh giá không tốt của chủ doanh nghiệp về năng lực quản lý của dội ngũ nhân lực mới. Nói cách khác, kỳ vọng về một sự thay đổi mang tính đột biến của chủ doanh nghiệp không được đáp ứng;

2. Sự phân cấp chưa đủ mạnh, cảm giác bị mất mát quyền lực, thói quen can thiệp vào công việc của chủ doanh nghiệp gây ra những khó khăn trong triển khai công việc của các nhân sự mới. Kỳ vọng và nhiệt huyết về việc đóng góp sức lực, kinh nghiệm của đội ngũ quản lý mới cho một tương lai bị xói mòn;

3. Khoảng cách rộng về tính chuyên nghiệp trong quản lý giữa lực lượng quản lý mới được tuyển dụng và lực lượng lao động hiện hữu của doanh nghiệp này hình thành những mâu thuẫn nhất định trong nội bộ doanh nghiệp. Mâu thuẫn này càng nghiêm trọng hơn đối với các lao động có vai vế trong doanh nghiệp, những lao động có quan hệ họ tộc. Mâu thuẫn này gây nhiễu thông tin và bất lợi cho công tác quản lý của nhân sự mới;

Kết quả là sự ra đi của lực lượng quản lý mới được tuyển dụng và tình trạng quản lý của doanh nghiệp lại càng tồi tệ hơn vì sự xáo trộn trong quản lý và bộ máy nhân sự. Quá trình tái lập thường bị thất bại. Trong ba nguyên nhân dẫn đến thất bại của quá trình tái lập, ta chú trọng đặc biệt vào nguyên nhân 1 và 2.

- Để quá trình tái lập thành công, các doanh nghiệp nên chú trọng đặc biệt đến tính chiến lược của tái lập. Mỗi chương trình tái lập nên được xây dựng thành kế hoạch cụ thể có lộ trình đầy đủ và nhất là có một dự tính ngân sách cụ thể. Trong kế hoạch tái lập, thể hiện đầy đủ dòng tiền thu-chi ứng với từng giai đoạn (có thể là quý, nửa năm) cụ thể.

- Ngoài ra, các chủ doanh nghiệp phải chịu chấp nhận từ bỏ những thói quen trong mô hình quản lý cũ, phải tập làm quen với cảm giác bị tước đoạt quyền lực.

- Và cuối cùng, quá trình tái lập phải được thực hiện từng buớc một để tránh hiện tượng gây sốc. Việc đồng bộ hoá giữa ngoại lực và nội lực là cần thiết nhưng phải được diễn ra từ từ và nhẹ nhàng.

Sài Gòn, ngày 30/3/2003
Đoàn Đình Hoàng
BrandAscend consulting
(Bài đăng trên TBKTSG 2003 và trong tập sách :Doanh nhân viết – 2006)

Comments

Popular posts from this blog

Định
 vị 
Việt 
Nam


Việt
 Nam
 ở
 đâu 
trong 
bản 
đồ 
thế 
giới?
 Câu 
hỏi
 trở 
nên 
nóng 
bỏng 
hơn
 bao 
giờ 
hết vì 
quá 
trình 
toàn 
cầu 
hoá 
diễn 
ra 
ngày 
càng 
mạnh 
mẽ 
và 
sâu 
rộng.
Chắc 
chắn,
“ở đâu”
 hoàn 
toàn
 không 
là 
vị 
trí 
địa 
lý 
mà 
là 
trong 
chuỗi 
giá 
trị 
toàn 
cầu,
trong 
tâm
 trí
 người 
tiêu 
dùng 
thế 
giới. 
 Không 
hẹn 
mà 
gặp,
 Philip 
Kotler,
một 
chuyên 
gia 
tiếp
 thị
 tầm
 cỡ
 thế 
giới,
 và 
như 
mới 
đây 
với 
Michael 
Porter,
 chiến 
lược 
gia 
hàng 
đầu 
thế
 giới, cùng đặt ra câu hỏi này cho Việt Nam. Ai cũng biết một quốc gia cần xác định cho mình một chỗ đứng độc đáo trong nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Toàn cầu hoá, một thuật ngữ không còn xa lạ ngay cả với người nông dân Việt Nam. “Bếp ăn thế giới” ý của Philip Kotler, hay “nông nghiệp – thuỷ sản” từ Michael Porter chỉ là hai gợi ý có tính tham khảo (vì thực sự các chuyên gia bậc thầy này chưa nhận được một đơn hàng chính thức cho việc xây dựng định vị Việt Nam). Tuy nhiên, mộ

Thị trường bia, thời của tay chơi

Tay chơi nào trụ hạng? Trong cái nắng Sài Gòn tháng Tư oi người, các băng rôn quảng cáo “Zorok, hai loại lúa mạch, một vị bia” góp phần làm nóng thêm áp lực cạnh tranh trong thị trường bia tại Việt Nam. Với một thị trường có sức tăng trưởng 2 con số và sức tiêu thụ bia đầu người năm chỉ mới 18 lít/người (2006) còn ở mức thấp so với trung bình của thế giới quả có sức hấp dẫn mạnh mẽ cho bất kỳ doanh nghiệp nào. Theo quy hoạch tổng thể ngành bia - rượu - nước giải khát của Bộ Công nghiệp được phê duyệt tại Quyết định 18/2007/QĐ-BCN, ngày 08/5/2007, sản lượng bia của Việt Nam năm 2005 là 1,53 tỷ lít và sẽ gia tăng lên đến 3,5 tỷ lít vào năm 2010, mức đầu tư tương ứng trong giai đoạn từ 2005 đến 2010 là 31,809 tỷ đồng. Xem thêm đồ thị về quy hoạch ngành bia Việt Nam đến năm 2010 của Bộ công nghiệp . Trước hết, xin được điểm qua một vài gương mặt điển hình làm nên bức tranh ngành bia Việt Nam. Lâu đời và danh tiếng phải kể đến Sabeco, tổng công ty bia – rượu – nước

Tình huống trà xanh Không độ và C2

Trà xanh đóng chai (Ready-to-drink) trở thành một chủ đề được thảo luận nhiều trong thời gian gần đây. Quan sát các sự kiện liên quan đến loại sản phẩm này, chúng ta có thể rút ra được những kinh nghiệm quý báu cho hoạt động truyền thông thương hiệu. Bài viết được phân tích dưới góc độ hơi thiên về chiến lược marketing thông qua quan sát và khảo cứu của tác giả từ các thông tin thu thập từ nhiều nguồn và các điều tra trực tiếp với người tiêu dùng với quy mô nhỏ để phục vụ cho luận điểm của bài viết. Bài viết, do vậy, nên được nhìn nhận dưới góc độ quan điểm của người hành nghề marketing và mong muốn được chia xẻ các ý kiến của bạn đọc về vấn đề này. Trà xanh là một thứ thức uống phổ biến trên thế giới từ hàng ngàn năm nay, đặc biệt là khu vực châu Á như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v. Tại một số quốc gia, uống trà còn được nâng lên thành nghệ thuật và với những nghi thức đặc biệt, phức tạp. Cuộc sống hiện đại thúc đẩy ngành công nghiệp nước uống tiện dụng phát triển mạnh