Skip to main content

Xây dựng thương hiệu nông sản Việt Nam - Bắt đầu từ gốc


Ông Trần Quốc Thái, Giám đốc Doanh nghiệp tư nhân Nguyên Thanh, đang phát biểu tại buổi tọa đàm "Tạo giá trị gia tăng cho hàng nông sản, giải pháp nâng sức cạnh tranh".


Nhãn lồng Hưng Yên nổi tiếng cả nước và ngày xưa được chọn làm trái cây “tiến vua”. Trong một lần dự hội thảo về bảo vệ thương hiệu do chính quyền địa phương tổ chức, nhiều người tham dự mới biết nhãn lồng Hưng Yên có hai loại chính. Loại trái ngọt thì nhiều nước, còn loại ít nước thì lại giòn và ít ngọt. Về thời gian bảo quản, người trồng nhãn chỉ biết áng chừng khoảng 2-3 ngày gì đó. Kể lại những thông tin trên tại buổi tọa đàm “Tạo giá trị gia tăng cho hàng nông sản, giải pháp nâng sức cạnh tranh” do Câu lạc bộ Xây dựng thương hiệu nông thủy sản Việt Nam, trực thuộc Saigon Times Club, tổ chức hôm 18-1, bà Lê Thị Minh Trang, Trưởng phòng Chất lượng Metro Cash & Carry, than phiền: “Làm sao có thể mua nhãn lồng mà hôm nay thì ngọt mai lại không ngọt. Rồi nhân viên siêu thị sẽ trả lời sao nếu người mua hỏi giữ nhãn được trong bao lâu?”. Hơn nữa, bà Trang nói tiếp, nông dân mình trồng cây chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền miệng hơn là kiến thức khoa học. Những tập quán sản xuất như vậy nếu không thay đổi thì nông sản Việt Nam rất khó “hội nhập”.



Tuy nhiên, theo bà Trang, cái khó lớn nhất trong sản xuất của nông dân chính là ở quy mô sản xuất nhỏ lẻ, phân tán. “Chúng tôi muốn tìm một khu đất có diện tích lớn, trồng chuyên canh và chủ đất có kiến thức để áp dụng tiêu chuẩn sản xuất sạch EUROGAP của châu Âu nhưng tìm mãi chẳng ra”, bà Trang dẫn chứng.



Nhu cầu tiêu thụ rau quả trong nước và thế giới đang tăng cao nhưng kèm theo đó là những yêu cầu cao. Trong khi đó, thực trạng sản xuất trong nước lại còn quá nhiều bất cập.



Theo ông Đặng Lê Nguyên Vũ, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Cà phê Trung Nguyên, giải pháp căn cơ để gia tăng giá trị cho hàng nông sản Việt Nam là phải tổ chức lại sản xuất. Ông Đoàn Đình Hoàng, Giám đốc Công ty Masso Consulting, chuyên tư vấn xây dựng thương hiệu, tiếp thêm rằng gốc rễ của vấn đề là từ khâu quy hoạch, nơi nào trồng cây gì cho phù hợp, ai đảm trách cung ứng giống tốt, liên kết và hỗ trợ nhau giữa nông dân và doanh nghiệp như thế nào. Hiện nay, theo ông Hoàng, việc tìm giá trị gia tăng qua chế biến và xuất khẩu, dựa vào kim ngạch xuất khẩu để chấm thành tích chỉ là phần ngọn.



Ngoài ra, một vấn đề cũng đáng quan tâm là quá nhiều doanh nghiệp trong nước chỉ chăm chăm vào xuất khẩu mà quên rằng nhu cầu tiêu thụ nông sản của 80 triệu dân trong nước cũng tăng, cả về số lượng, chất lượng cũng như độ an toàn của nông sản. Ông Hoàng cho rằng: “Chỉ cần chiếm lĩnh được thị trường nông sản nội địa cũng đã quá tuyệt vời chứ chưa nói tới xuất khẩu”.



Đồng tình với quan điểm trên, ông Trần Minh Thành, Giám đốc Công ty Biofarm, dẫn chứng : nhiều người say sưa với thông tin Việt Nam đang khống chế thị trường xuất khẩu tiêu thế giới, với tỷ trọng hơn 50% lượng hồ tiêu xuất khẩu toàn cầu, nhưng nông dân thì đang “vắt kiệt” cây tiêu để có thành tích trên. Hậu quả là trước đây chu kỳ thu hoạch của cây tiêu kéo dài hơn 20 năm, nay chỉ còn 4-7 năm, rồi dịch bệnh cũng nhiều hơn. Và không chỉ có tiêu. Cà phê bị bệnh ve sầu, lúa bị bệnh vàng lùn xoắn lá. Thực trạng này nói lên khâu sản xuất của chúng ta có vấn đề, sản xuất không an toàn, chạy theo sản lượng.



Ông Trần Quốc Thái, Giám đốc Doanh nghiệp tư nhân Phong lan Nguyên Thanh, cho biết Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phát động phong trào “mỗi héc ta đất nông nghiệp cho thu nhập 50 triệu đồng mỗi năm”, vậy mà một héc ta trồng phong lan của ông cho doanh thu 2 tỉ đồng. Nhưng do trong nước không một cơ quan khoa học nào nghiên cứu, lai tạo giống mới nên mỗi tháng ông Thái phải bỏ ra một tuần để sang Thái Lan săn lùng giống mới. Thị trường tiêu thụ phong lan đang rộng mở, người dân đang cần làm đẹp cho ngôi nhà, văn phòng, công sở chứ chưa nói tới xuất khẩu.



Tương tự, bà Võ Mai, Chủ tịch Hiệp hội Trái cây Việt Nam (Vinafruit), cho biết các nhà xuất khẩu trái cây cứ kêu ca không có thị trường nhưng họ quên rằng dù có thị trường xuất khẩu nhưng với cung cách sản xuất hiện nay thì không thể bán được nhiều trái cây ra thế giới. “Cần 100 trái bưởi đồng đều thì có nhưng cần 1.000 trái thì không. Như vậy làm sao xuất khẩu? Thanh long trong nước dư thừa trong khi thị trường EU có nhu cầu lại không xuất được vì thời gian bảo quản trái thanh long quá ngắn. Chẳng ai nghiên cứu tìm cách giải quyết mâu thuẫn này”, bà Mai than phiền.



Ông Nguyễn Lâm Viên, Tổng giám đốc Công ty Vinamit, cho rằng chính các doanh nghiệp phải đi tiên phong trong việc giúp nông dân thay đổi tư duy trồng trọt, bán hàng. Ông dẫn ra trường hợp “chuỗi tiện ích nông nghiệp” mà Vinamit đã làm thành công ở Tây Nguyên. Nông dân vốn thích bán “mão”, bán xô nguyên cả vườn vừa khỏe, vừa tiện lợi. Nếu doanh nghiệp ép nông dân, bắt họ phải phân loại thì sẽ thất bại. Nhưng nếu “nương” theo họ, vừa mua xô, vừa khuyến khích nông dân phân loại với các mức giá mua khác nhau thì sẽ thành công. Như vậy nông dân sẽ dần thay đổi nhận thức trong sản xuất và bán hàng - làm ra sản phẩm chất lượng cao để bán giá tốt - đó cũng là cách để làm gia tăng giá trị nông sản.

Bài đăng trên TBKTSG số 5-2007, ngày 25/1/2007
Brandascend Consulting
Jan 29

Comments

Popular posts from this blog

Định
 vị 
Việt 
Nam


Việt
 Nam
 ở
 đâu 
trong 
bản 
đồ 
thế 
giới?
 Câu 
hỏi
 trở 
nên 
nóng 
bỏng 
hơn
 bao 
giờ 
hết vì 
quá 
trình 
toàn 
cầu 
hoá 
diễn 
ra 
ngày 
càng 
mạnh 
mẽ 
và 
sâu 
rộng.
Chắc 
chắn,
“ở đâu”
 hoàn 
toàn
 không 
là 
vị 
trí 
địa 
lý 
mà 
là 
trong 
chuỗi 
giá 
trị 
toàn 
cầu,
trong 
tâm
 trí
 người 
tiêu 
dùng 
thế 
giới. 
 Không 
hẹn 
mà 
gặp,
 Philip 
Kotler,
một 
chuyên 
gia 
tiếp
 thị
 tầm
 cỡ
 thế 
giới,
 và 
như 
mới 
đây 
với 
Michael 
Porter,
 chiến 
lược 
gia 
hàng 
đầu 
thế
 giới, cùng đặt ra câu hỏi này cho Việt Nam. Ai cũng biết một quốc gia cần xác định cho mình một chỗ đứng độc đáo trong nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Toàn cầu hoá, một thuật ngữ không còn xa lạ ngay cả với người nông dân Việt Nam. “Bếp ăn thế giới” ý của Philip Kotler, hay “nông nghiệp – thuỷ sản” từ Michael Porter chỉ là hai gợi ý có tính tham khảo (vì thực sự các chuyên gia bậc thầy này chưa nhận được một đơn hàng chính thức cho việc xây dựng định vị Việt Nam). Tuy nhiên, mộ

Thị trường bia, thời của tay chơi

Tay chơi nào trụ hạng? Trong cái nắng Sài Gòn tháng Tư oi người, các băng rôn quảng cáo “Zorok, hai loại lúa mạch, một vị bia” góp phần làm nóng thêm áp lực cạnh tranh trong thị trường bia tại Việt Nam. Với một thị trường có sức tăng trưởng 2 con số và sức tiêu thụ bia đầu người năm chỉ mới 18 lít/người (2006) còn ở mức thấp so với trung bình của thế giới quả có sức hấp dẫn mạnh mẽ cho bất kỳ doanh nghiệp nào. Theo quy hoạch tổng thể ngành bia - rượu - nước giải khát của Bộ Công nghiệp được phê duyệt tại Quyết định 18/2007/QĐ-BCN, ngày 08/5/2007, sản lượng bia của Việt Nam năm 2005 là 1,53 tỷ lít và sẽ gia tăng lên đến 3,5 tỷ lít vào năm 2010, mức đầu tư tương ứng trong giai đoạn từ 2005 đến 2010 là 31,809 tỷ đồng. Xem thêm đồ thị về quy hoạch ngành bia Việt Nam đến năm 2010 của Bộ công nghiệp . Trước hết, xin được điểm qua một vài gương mặt điển hình làm nên bức tranh ngành bia Việt Nam. Lâu đời và danh tiếng phải kể đến Sabeco, tổng công ty bia – rượu – nước

Tình huống trà xanh Không độ và C2

Trà xanh đóng chai (Ready-to-drink) trở thành một chủ đề được thảo luận nhiều trong thời gian gần đây. Quan sát các sự kiện liên quan đến loại sản phẩm này, chúng ta có thể rút ra được những kinh nghiệm quý báu cho hoạt động truyền thông thương hiệu. Bài viết được phân tích dưới góc độ hơi thiên về chiến lược marketing thông qua quan sát và khảo cứu của tác giả từ các thông tin thu thập từ nhiều nguồn và các điều tra trực tiếp với người tiêu dùng với quy mô nhỏ để phục vụ cho luận điểm của bài viết. Bài viết, do vậy, nên được nhìn nhận dưới góc độ quan điểm của người hành nghề marketing và mong muốn được chia xẻ các ý kiến của bạn đọc về vấn đề này. Trà xanh là một thứ thức uống phổ biến trên thế giới từ hàng ngàn năm nay, đặc biệt là khu vực châu Á như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v. Tại một số quốc gia, uống trà còn được nâng lên thành nghệ thuật và với những nghi thức đặc biệt, phức tạp. Cuộc sống hiện đại thúc đẩy ngành công nghiệp nước uống tiện dụng phát triển mạnh