Skip to main content

Nói marketing, làm marketing (tt)

Bài viết này là phần tiếp và cũng kết thúc cho bài đã đăng về "Nói marketing và làm marketing". Hẹn gặp lại với những thảo luận sâu hơn về marketing chiến lược.



Sự đời không đơn giản, số doanh nghiệp sản xuất ra một loại hàng hoá nào đó ngày càng nhiều, họ đến không chỉ từ trong nước mà còn có cả hàng đến từ nước ngoài. Người mua thì đứng trước quá nhiều lựa chọn. Trong khi chỉ cần có một loại dầu gội đầu có thể gội sạch đầu sau một ngày lăn lộn ngoài đường, thơm một chút thì tốt, giúp tóc mượt thì càng tốt hơn. Tuy nhiên, hãng X cũng làm ra dầu gội đầu, hãng Y cũng làm ra dầu gội đầu, hãng Z cũng vậy. Và chắc chắn, trong 3 hãng trên, nếu hãng nào không tạo ra dầu gội có được tính năng sạch đầu, có mùi thơm, mượt tóc thì chỉ có nước đem lên núi mà bán. Thậm chí cũng không thể bán được ở trên núi vì 2 hãng kia cũng ráng đem sản phẩm của họ lên núi luôn. Thế là các hãng thi nhau đưa ra những tính năng mới hơn để cho khách hàng thấy sản phẩm của mình có ích hơn sản phẩm của hãng khác. Khổ nỗi, khách hàng thường mua sản phẩm theo thói quen, phần thì đâu phải là chuyên gia nên đâu có để ý các tính năng mới đó. Vậy là, bên cạnh việc đưa ra tính năng mới, các hãng còn phải la lớn lên với khách hàng rằng: “bớ quý ông ơi, vì tóc của quý ông khác quý bà, da đầu quý ông cũng khác da đầu quý bà luôn nên hãng tui đã sản xuất ra một loại dầu gội dành riêng cho quý ông, thơm mùi thơm đàn ông, sạch đầu kiểu đàn ông, mượt tóc kiểu đàn ông”. Quý ông nghe đã tai quá, đã vậy, anh chàng diễn viên điển trai Hollywood cũng dùng nữa nên chắc cũng thử dùng xem sao. Tuy nhiên, cũng có không ít người bĩu môi, “thách tướng”, mình học 12 năm trong ngành bác sĩ về da, đâu có thấy sự khác biệt gì nhiều giữa cấu trúc tóc nam so với cấu trúc tóc nữ. Cứ xài loại trước giờ đang dùng cho chắc ăn. Các hãng cũng đâu chịu thua, hàng đêm cứ dội bom trên tivi rằng dầu cho đàn ông phải khác, đã vậy còn đi phát những gói sản phẩm dùng một lần cho quý ông thử. Quý ông nào cứng đầu nhất thì cũng bị buộc phải dùng vì bà xã lỡ muốn ông chồng mình điển trai (chứ không phải đẹp tóc) như ngôi sao Hollywood nên đã rước cả chai về cho ông xã rồi. Đến đây, hẳn các bạn đã thấy vai trò của marketing như thế nào đối với một doanh nghiệp. Một số người lạc quan, đặc biệt là người xưng danh là “marketer”, lúc này có dịp lên mặt: “thấy chưa, không có marketing làm gì doanh thu công ty tăng ào ào, hàng hoá sản xuất không kịp, quỹ này quỹ kia xếp hàng “xin” được đầu tư. Rủi thay, ông bác sĩ chuyên khoa da mới gội có mấy lần từ “tình thương bà xã” cái đầu đã “chớm bạc” vì gàu nên đành phật lòng bà xã mà bái bai không hẹn ngày gặp lại. Chẳng những vậy, do người vợ thương chồng bị một vố “oan Thị Mầu” nên chẳng những quay ngoắc 180 độ với dầu gội đàn ông X mà còn ra sức quảng cáo dùm “cái sự gàu” của X để mong rằng bạn bè mình đừng rơi vào cảnh “Thị Mầu” của mình. Chàng diễn viên điển trai trong phim quảng cáo giờ đây lại ép phê ngược cho công ty. Trở lại câu chuyện chàng diễn viện điển trai xuất hiện trên tivi dùng dầu gội X (nhiều khi chỉ là nói xạo, nhưng được cái khối người tin), không ít chàng đổ xô ra siêu thị tìm mua. Rủi thay, hàng chưa nhập vào siêu thị được vì vô khối lý do có thể xảy ra. Đại loại như, bộ phận xét duyệt nhập hàng siêu thị đang cân nhắc có nên nhận mặt hàng X không, hoặc nhân viên bán hàng siêu thị không biết đi cửa sau nên đơn hàng còn treo lửng lơ nơi bình yên nghe chim hót, v.v Những sự cố này, rõ ràng không tại marketer nhà ta nhưng kết quả chung là thất bại. Vậy thì phải chăng marketer “dở ẹt”? Câu trả lời hẳn chúng ta cũng biết là chẳng phải do người làm marketing gây ra.


Để tạm đóng ý kiến về vấn đề này, xin được nêu ra một số luận điểm.

Luận điểm một: Các hoạt động trong một công ty có mỗi quan hệ hữu cơ với nhau, như chính một cơ thể sống. Khó có thể nói mắt quan trọng hơn chân tay hay ngược lại. Tuy nhiên, từng, nơi, từng lúc, từng hoàn cảnh, có thể có hoạt động này quan trọng hơn hay hoạt động kia quan trọng hơn. Chẳng hạn, khi bộ phận sản xuất đã tạo ra một sản phẩm được đánh giá là ngang bằng, hoặc tốt hơn sản phẩm cạnh tranh thì nhiệm vụ cuả marketing và bán hàng là quan trọng. Có ba cách tiếp cận về vai trò của các hoạt động trong việc tạo lập doanh nghiệp. Đó là: (1) đổi mới và sáng tạo đóng vai trò quyết định. R&D sẽ là hoạt động trung tâm và những phát minh, sáng tạo sẽ dẫn dắt các hoạt động khác của công ty. Các công ty trong lĩnh vực dược phẩm, các công ty có vị thế dẫn đầu thường chọn chiến lược này. Đầu tư cho R&D là hoạt động mang tính sống còn, quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Microsoft, Google, IBM, Samsung, Pfizer, Eli Lilly, Roche, .. (2) marketing đóng vai trò quyết định. Phần lớn các công ty trong lĩnh vực hàng tiêu dùng, hàng thời trang, hàng cao cấp, các công ty theo đuôi (followers) chọn chiến lược này. Ngân sách chủ yếu sử dụng cho marketing và vị thế cạnh tranh thường là kết quả cuả nỗ lực marketing. Các công ty trong nhóm này như Unilever, Pepsi, Kraft, Nike, Armani, v.v và (3) các công ty lựa chọn chiến lược hỗn hợp. Thành công đến từ cả hoạt động đổi mới sáng tạo và từ marketing. Nhóm này phần lớn là các công ty trong lĩnh vực công nghệ điện tử, ô tô như Sony, Samsung, Apple, Nissan, Honda, …


Luận điểm hai: để đánh giá thành công của một hoạt động, thiết nghĩ cần xem xét hai yếu tố: (1) mục tiêu đặt ra ban đầu, và (2) vai trò của người chịu trách nhiệm. Sự thất bại của bia Laser thuộc về trách nhiệm của ai? Để đánh giá phải đối chiếu với mục tiêu ban đầu. Nếu ý định tung bia Laser là để kéo bia Bến Thành lên một phân khúc cao hơn thì mục tiêu này đã không thành công. Nếu mục tiêu của bia Laser là hình thành con bò sữa cho công ty để thay thế cho con bò sữa tăng lực sắp hết kỳ cho sữa thì lại càng không thành công. Và ngay cả khi Laser có một kết cục không thành công thì nguyên nhân ở khâu nào? Không đưa được hàng vào quán nhậu; bia uống nhức đầu, bí tiểu; quảng cáo hoành tráng quá; chiến lược sai lầm; v.v có rất nhiều nguyên nhân có thể bàn nhưng rõ ràng chỉ có chủ doanh nghiệp mới rút ra được kinh nghiệm đầy đủ mà thôi.


Luận điểm ba: “Làm đúng việc” quan trọng và cần xem xét trước khi xem xét đến “làm việc đúng”. Làm việc đúng chính là có một chiến lược tốt. Một nhà marketer giỏi trước hết phải đưa ra được một chiến lược đúng.

o Lựa chọn Chiến lược đúng (làm đúng việc) ở đây bao gồm:
>> Cung cấp các phân tích giúp tạo ra sản phẩm đúng: được người tiêu đón nhận và có lý do thích hợp để mua sản phẩm đó.

>> Lựa chọn định vị đúng: Chọn lựa nhóm khách hàng mục tiêu đúng và xác lập một vị thế sản phẩm trong mối tương quan với sản phẩm cạnh tranh trên thị trường phù hợp với tầm nhìn, sứ mạng của công ty


o Thực thi chiến lược đúng (làm việc đúng): triển khai các công truyền thông (Intergrated marketing communication) phù hợp với định vị đã lựa chọn và nỗ lực tạo ra động cơ mua hàng nhằm hỗ trợ hoạt động bán hàng tạo doanh số, chiếm thị phần.

Một vài ý kiến gợi mở suy nghĩ về marketing, marketer. Sẽ sớm trở lại chủ đề này ở góc nhìn tạo ra chiến lược đúng.


Saigon, November 6th 2007
Brand Anscend Consulting
Doan Dinh Hoang

Comments

Popular posts from this blog

Tình huống trà xanh Không độ và C2

Trà xanh đóng chai (Ready-to-drink) trở thành một chủ đề được thảo luận nhiều trong thời gian gần đây. Quan sát các sự kiện liên quan đến loại sản phẩm này, chúng ta có thể rút ra được những kinh nghiệm quý báu cho hoạt động truyền thông thương hiệu. Bài viết được phân tích dưới góc độ hơi thiên về chiến lược marketing thông qua quan sát và khảo cứu của tác giả từ các thông tin thu thập từ nhiều nguồn và các điều tra trực tiếp với người tiêu dùng với quy mô nhỏ để phục vụ cho luận điểm của bài viết. Bài viết, do vậy, nên được nhìn nhận dưới góc độ quan điểm của người hành nghề marketing và mong muốn được chia xẻ các ý kiến của bạn đọc về vấn đề này. Trà xanh là một thứ thức uống phổ biến trên thế giới từ hàng ngàn năm nay, đặc biệt là khu vực châu Á như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v. Tại một số quốc gia, uống trà còn được nâng lên thành nghệ thuật và với những nghi thức đặc biệt, phức tạp. Cuộc sống hiện đại thúc đẩy ngành công nghiệp nước uống tiện dụng phát triển mạnh...

Xây dựng thương hiệu, mệnh lệnh của nền kinh tế hội nhập

Nụ cười thương hiệu Passio Coffee to go Thương hiệu (brand) là một loại tài sản quan trọng của doanh nghiệp. Thương hiệu cũng chính là vũ khí cạnh tranh lợi hại của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Xây dựng thương hiệu, vì vậy càng trở nên bức bách với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng ý thức được tầm quan trọng của thương hiệu và hiểu thấu đáo lộ trình xây dựng thương hiệu. Thương hiệu có nguồn gốc từ việc đóng dấu hiệu nhận biết của chủ sở hữu lên nô lệ hay vật nuôi để xác nhận quyền sở hữu từ thời cổ. Tuy nhiên, thương hiệu sử dụng phổ biến khoản từ thập niên 80s của Thế kỷ 20 khi hoạt động Mua bán & sáp nhập (M&A) diễn ra mạnh mẽ. Điển hình nhất là vụ mua lại Rowntree, nhà sản xuất Chocolate và kẹo của Anh quốc lớn thứ tư thế giới, bởi Nestle vào năm 1985. Giá trị thương vụ này lên đến 2,5 tỷ bảng Anh, gấp 8 lần giá trị tài sản thể hiện trên sổ sách kế toán của Rowntree vào thời điểm mua bán. Một phần quan trọng ...

Trả lời phỏng vấn báo Sài Gòn đầu tư tài chính về Thương hiệu Việt

Thương hiệu Việt có chăng? 1/ Theo anh, từ sau 1975 cho đến nay đâu là thời điểm mà các doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu chú ý đến việc xây dựng thương hiệu. Và cho đến nay việc xây dựng thương hiệu đã được các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm như thế nào? Thế mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam khi phát triển thương hiệu là gì? Sau năm 1975, Việt Nam theo đuổi nền kinh tế tập trung đến hết năm 1986 thì chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, từ chủ trương của Bộ chính trị đến các chính sách triển khai nên khoản từ năm 1988 trở đi mới bắt đầu xuất hiện kinh tế dân doanh và đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, giai đoạn đầu của chuyển đổi sang kinh tế đa thành phần, doanh nghiệp chỉ tập trung giải quyết bài toán sản xuất để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đang thiếu thốn nghiêm trọng nên nhưng vấn đề và marketing, thương hiệu chưa được nói đến. Manh nha vấn đề thương hiệu bắt đầu xuất hiện trong những dự án liên doanh giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài....