Skip to main content

Chờ đợi "lệnh" liên kết?



Chiều 24/4 tại Furama, Diễn đàn kinh tế miền Trung ngày càng nóng hơn cho dù bên ngoài trời đã chuyển sang chiều muộn. Rất nhiều doanh nghiệp, rất nhiều diễn giả tập trung đóng góp cho Diễn đàn. Điểm đạt được đồng thuận cao nhất chính là nhu cầu phải liên kết lại của các chính quyền địa phương, các doanh nghiệp với nhau, liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp.


Một thực trạng mà các ý kiến phát biểu nêu lên chính là các địa phương, các doanh nghiệp với nhau, đã chọn giải pháp cạnh tranh thay vì liên kết. Điều này được dẫn chứng bởi thực trạng tỉnh nào cũng đầu tư cảng biển, tỉnh nào cũng mở khu công nghiệp, mở resort, v.v Trong một bài báo trên Tuổi Trẻ cuối tuần trước đây, đã từng có cảnh báo “cuộc đua xuống đáy” để nói lên việc cạnh trạnh này.


Điều đáng suy gẫm đến từ quan điểm về giải pháp liên kết. Hầu hết, từ cấp lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo các trung tâm đào tạo, lãnh đạo doanh nghiệp lại tiếp cận giải pháp với sức ỳ tâm lý cố hữu cuả thời kỳ bao cấp. Liên kết là một nhu cầu tự thân của đám đông (nhóm) khi từng cá thể cảm nhận (cũng có thể xem là kỳ vọng) được giá trị lớn hơn có được khi liên kết. Một liên kết, tự nó hình thành bởi một cá thể tìm cách gia tăng giá trị cuả mình thông qua liên kết và đạt được khi đối tác liên kết cũng đạt được một giá trị gia tăng cho chính họ. Đây chính là một dạng lý thuyết trò chơi (games theory). Xét đơn giản cho một liên kết chỉ có 2 cá thể. Chắc chắn, phải có một cá thể xuất phát đề nghị được liên kết với đối tác. Liên kết sẽ được hình thành khi bên đề nghị liên kết và bên được đề nghị liên kết tìm thấy lợi ích phù hợp khi liên kết hình thành. Do vậy, phương án đề nghị, trước hết và chắc chắn sẽ cần chưá đựng lợi ích của mình trong liên kết nhưng cũng phải chỉ ra được lợi ích mà đối tác liên kết của mình cũng sẽ nhận được từ liên kết. Sự trì hoãn nằm ở chỗ “ai”, địa phuơng nào, doanh nghiệp nào, doanh nghiệp hay trung tâm đào tạo, sẽ là người chủ động đưa ra phương án liên kết với đối tác. Sự liên kết do vậy bị bế tắt vì không “ai” chịu là chủ thể đưa ra liên kết. Tất cả, ngay lập tức tìm đến một giải pháp mang tính ỳ của cả một giai đoạn. Đó là: phải hình thành một tổ chức, hay một đầu mối, hay một ban, đây chính là “bàn tay hữu hình”, để thực hiện việc liên kết. Liệu “bàn tay hữu hình” này có tránh khỏi vết xe đổ của những “liên kết hình thức”, “liên kết chủ trương” đã từng có hay không?


Tại sao chúng ta không tư duy theo hướng liên kết bởi “bàn tay vô hình”? Các địa phương cứ cạnh tranh nhau trong thu hút đầu tư, và chắc chắn sẽ có những địa phương phải xuống đáy và khi đó sẽ có những tỉnh, những địa phương lựa chọn cho mình một “định vị” phù hợp hơn cho mình. Xin được nêu một ví dụ. Phần lớn cửa ngõ giao tiếp với nước ngoài ở miền Trung là Đà Nẵng vì lợi thế về sân bay quốc tế và cảng biển. Nếu Huế cũng tập trung vào nỗ lực xây sân bay, xây cảng thì vẫn khó mà đủ sức cạnh tranh với Đà Nẵng về thu hút đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp. Thay vào đó, Huế có thể tập trung và tôn tạo môi trường, gìn giữ nét thơ mộng, êm ả, trầm mặc để thu hút khách du lịch của nhu cầu tìm đến một nơi chốn yên bình, một “không gian Huế”. Điểm cần thiết duy nhất để “bàn tay vô hình” vận hành là phải có người, có nơi chịu trách nhiệm cho những lựa chọn của mình. Lãnh đạo tỉnh phải chịu trách nhiệm cho việc nghèo đói của địa phương mình, chủ doanh nghiệp phải bị phá sản, phải bị thiệt hại về tiền bạc cho quyết định “đua làm resort” của mình, lãnh đạo trường đại học phải chịu trách nhiệm cho quyết định lựa chọn chuyên ngành đào tạo, cho quyết định chọn phương pháp đào tạo không phù hợp của mình. Dường như, cơ chế chịu trách nhiệm này chưa được vận hành. Lãnh đạo địa phương vẫn trúng cử hết nhiệm kỳ này đến nhiệm kỳ khác cho dù dân chúng ngày càng khó khăn hơn. Lãnh đạo doanh nghiệp vẫn nắm ngày càng giữ cương vị cao hơn khi doanh nghiệp càng lún sâu vào nợ nần, v.v


Khó quá, “sức ỳ” ơi.


Đoàn Đình Hoàng
Brand Ascend Consulting
Sài Gòn, April 26, 2008
(Bài đăng trên TTCT, 17-2008, ngày 4/5/2008)

Comments

Popular posts from this blog

Tình huống trà xanh Không độ và C2

Trà xanh đóng chai (Ready-to-drink) trở thành một chủ đề được thảo luận nhiều trong thời gian gần đây. Quan sát các sự kiện liên quan đến loại sản phẩm này, chúng ta có thể rút ra được những kinh nghiệm quý báu cho hoạt động truyền thông thương hiệu. Bài viết được phân tích dưới góc độ hơi thiên về chiến lược marketing thông qua quan sát và khảo cứu của tác giả từ các thông tin thu thập từ nhiều nguồn và các điều tra trực tiếp với người tiêu dùng với quy mô nhỏ để phục vụ cho luận điểm của bài viết. Bài viết, do vậy, nên được nhìn nhận dưới góc độ quan điểm của người hành nghề marketing và mong muốn được chia xẻ các ý kiến của bạn đọc về vấn đề này. Trà xanh là một thứ thức uống phổ biến trên thế giới từ hàng ngàn năm nay, đặc biệt là khu vực châu Á như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v. Tại một số quốc gia, uống trà còn được nâng lên thành nghệ thuật và với những nghi thức đặc biệt, phức tạp. Cuộc sống hiện đại thúc đẩy ngành công nghiệp nước uống tiện dụng phát triển mạnh...

Xây dựng thương hiệu, mệnh lệnh của nền kinh tế hội nhập

Nụ cười thương hiệu Passio Coffee to go Thương hiệu (brand) là một loại tài sản quan trọng của doanh nghiệp. Thương hiệu cũng chính là vũ khí cạnh tranh lợi hại của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Xây dựng thương hiệu, vì vậy càng trở nên bức bách với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng ý thức được tầm quan trọng của thương hiệu và hiểu thấu đáo lộ trình xây dựng thương hiệu. Thương hiệu có nguồn gốc từ việc đóng dấu hiệu nhận biết của chủ sở hữu lên nô lệ hay vật nuôi để xác nhận quyền sở hữu từ thời cổ. Tuy nhiên, thương hiệu sử dụng phổ biến khoản từ thập niên 80s của Thế kỷ 20 khi hoạt động Mua bán & sáp nhập (M&A) diễn ra mạnh mẽ. Điển hình nhất là vụ mua lại Rowntree, nhà sản xuất Chocolate và kẹo của Anh quốc lớn thứ tư thế giới, bởi Nestle vào năm 1985. Giá trị thương vụ này lên đến 2,5 tỷ bảng Anh, gấp 8 lần giá trị tài sản thể hiện trên sổ sách kế toán của Rowntree vào thời điểm mua bán. Một phần quan trọng ...

Trả lời phỏng vấn báo Sài Gòn đầu tư tài chính về Thương hiệu Việt

Thương hiệu Việt có chăng? 1/ Theo anh, từ sau 1975 cho đến nay đâu là thời điểm mà các doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu chú ý đến việc xây dựng thương hiệu. Và cho đến nay việc xây dựng thương hiệu đã được các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm như thế nào? Thế mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam khi phát triển thương hiệu là gì? Sau năm 1975, Việt Nam theo đuổi nền kinh tế tập trung đến hết năm 1986 thì chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, từ chủ trương của Bộ chính trị đến các chính sách triển khai nên khoản từ năm 1988 trở đi mới bắt đầu xuất hiện kinh tế dân doanh và đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, giai đoạn đầu của chuyển đổi sang kinh tế đa thành phần, doanh nghiệp chỉ tập trung giải quyết bài toán sản xuất để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đang thiếu thốn nghiêm trọng nên nhưng vấn đề và marketing, thương hiệu chưa được nói đến. Manh nha vấn đề thương hiệu bắt đầu xuất hiện trong những dự án liên doanh giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài....