Skip to main content

Vinaphone 3G – Rằng hay thì …




Dạo này khi xem tivi, hẳn chúng ta đôi khi được xem các spots quảng cáo về dịch vụ 3G của Vinaphone. Trong số 4 hay 5 mẩu quảng cáo 3G của Vinaphone tạm chia làm 2 nhóm: (1) giới thiệu sự xuất hiện của 3G Vinaphone và (2) quảng cáo cho các giá trị gia tăng thực hiện trên điện thoại có chức năng 3G.

Chiến dịch này tốn không ít ngân sách của Vinaphone vì ta có thể thấy tần suất quảng cáo, thực hiện đồng loạt trên nhiều kênh quảng cáo như tivi, radio, báo, trang mạng, … Sẽ chẳng có gì đáng nói ngoại trừ những rủi ro quá lớn khi có thể gây tác dụng phản cảm từ những sáng tạo chẳng giống ai.

Với các quảng cáo mang thông điệp (1) là khá hay khi sử dụng âm thanh huýt sáo ấn tượng và có tính khêu gợi tò mò cao qua sự hiện diện rất đông người trên màn hình và dẫn dắt theo lối lan truyền. Tuy nhiên, với vai trò tạo ra nhận biết nên các phim quảng cáo này chưa đủ mạnh để tạo ra động cơ mua dịch vụ.

Do vậy, việc cho phát các quảng cáo nhóm (2) nói về lợi ích của dịch vụ là cần thiết. Các dịch vụ như chơi game online, lướt nét, tải nhạc, xem phim, thoại có hình, video camera, v.v đều được đề cập để chỉ ra lợi ích của dịch vụ 3G. Nhưng 3G không chỉ là dịch vụ duy nhất có ở Vinaphone mà còn có thể được cung cấp bởi Mobilefone, Viettel. Đến đây, các dịch vụ 3G của từng nhà cung cấp buộc phải chỉ ra bản sắc riêng của dịch vụ mình cung cấp. Các nhà sáng tạo quảng cáo 3G Vinaphone dường như quá chú trọng đến mục tiêu sáng tạo mà bỏ qua khía cạnh văn hoá của vấn đề. Hàng loạt phim quảng cáo nhóm (2) mô tả một công ty và các tình huống sử dụng dịch vụ điện thoại 3G. Công ty này có nhân viên và xếp luôn chơi trong giờ làm, nhân viên nói dối xếp (xem đá bóng, đánh bi a, …), xếp cũng nói dối nhân viên (chơi với con tại nhà nhưng giả như đang họp hành, làm việc).

Thương hiệu dùng để nhận diện người sử dụng nó, cho xã hội thấy mình (người sử dụng) thuộc về cộng đồng nào, đẳng cấp nào, tính cách nào, … Không hiểu có khách hàng nào dám sử dụng dịch vụ 3G của Vinaphone để nói với mọi người mình thuộc về cộng đồng dối trá, doanh nghiệp không nghiêm túc.

Đầu tư rất nhiều tiền cho quảng cáo, 3G của Vinaphone đang đêm ngày nỗi lực tạo một hình ảnh không đẹp trong lòng khách hàng và cộng đồng.

Ôi thôi, rằng hay thì thật là …

Đoàn Đình Hoàng
Feb 9th 2010

Comments

  1. Chào Thầy Hoàng,
    Em từng là học viên của Thầy ở VietnamMarcom nên xin phép được xưng hô như thế. Em cũng đang làm việc trong lĩnh vực truyền thông - thương hiệu nên đọc những bài viết của Thầy cảm giác rất "phê". Với bài về 3G Vinaphone, em cũng có cùng nhận định như Thầy. Một kinh phí khổng lồ mà Vinaphone đưa ra có khi chỉ để nói hộ cho đối thủ hiện tại. Điều khó nhất chính là 3G quá mới với người sử dụng ở Việt Nam. Theo trình tự thì Vinaphone phải "giáo dục" phân khúc về công nghệ, sau đó mới truyền đạt yếu tố cảm xúc theo sau. Nhưng thực tế thì... Những lợi ích của 3G mà nhóm (2) tập trung hướng đến thì ở Viettel, Mobiphone đều có. Vậy khách hàng tiềm năng sẽ tự hỏi đâu là khác biệt để sử dụng 3G của Vinaphone mà không là Viettel hay Mobiphone. Trong khi đó Viettel vẫn theo đuổi chính sách "làm nhiều hơn nói" có lẽ ít nhất cũng hiệu quả hơn ở điểm tối ưu được ngân sách. Vinaphone va VNPT còn nhiều chiến dịch quảng cáo khác mà theo góc nhìn của em là chỉ để giải ngân hết ngân sách quảng cáo từ doanh thu trước thuế mà thôi. Hy vong Thầy sẽ cho em nhiều ý kiến để học hỏi thêm từ thực tế.
    Email cá nhân của em là: nhlamsg@gmail.com
    Cám ơn Thầy rất nhiều.

    ReplyDelete

Post a Comment

Popular posts from this blog

Tình huống trà xanh Không độ và C2

Trà xanh đóng chai (Ready-to-drink) trở thành một chủ đề được thảo luận nhiều trong thời gian gần đây. Quan sát các sự kiện liên quan đến loại sản phẩm này, chúng ta có thể rút ra được những kinh nghiệm quý báu cho hoạt động truyền thông thương hiệu. Bài viết được phân tích dưới góc độ hơi thiên về chiến lược marketing thông qua quan sát và khảo cứu của tác giả từ các thông tin thu thập từ nhiều nguồn và các điều tra trực tiếp với người tiêu dùng với quy mô nhỏ để phục vụ cho luận điểm của bài viết. Bài viết, do vậy, nên được nhìn nhận dưới góc độ quan điểm của người hành nghề marketing và mong muốn được chia xẻ các ý kiến của bạn đọc về vấn đề này. Trà xanh là một thứ thức uống phổ biến trên thế giới từ hàng ngàn năm nay, đặc biệt là khu vực châu Á như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v. Tại một số quốc gia, uống trà còn được nâng lên thành nghệ thuật và với những nghi thức đặc biệt, phức tạp. Cuộc sống hiện đại thúc đẩy ngành công nghiệp nước uống tiện dụng phát triển mạnh...

Xây dựng thương hiệu, mệnh lệnh của nền kinh tế hội nhập

Nụ cười thương hiệu Passio Coffee to go Thương hiệu (brand) là một loại tài sản quan trọng của doanh nghiệp. Thương hiệu cũng chính là vũ khí cạnh tranh lợi hại của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Xây dựng thương hiệu, vì vậy càng trở nên bức bách với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng ý thức được tầm quan trọng của thương hiệu và hiểu thấu đáo lộ trình xây dựng thương hiệu. Thương hiệu có nguồn gốc từ việc đóng dấu hiệu nhận biết của chủ sở hữu lên nô lệ hay vật nuôi để xác nhận quyền sở hữu từ thời cổ. Tuy nhiên, thương hiệu sử dụng phổ biến khoản từ thập niên 80s của Thế kỷ 20 khi hoạt động Mua bán & sáp nhập (M&A) diễn ra mạnh mẽ. Điển hình nhất là vụ mua lại Rowntree, nhà sản xuất Chocolate và kẹo của Anh quốc lớn thứ tư thế giới, bởi Nestle vào năm 1985. Giá trị thương vụ này lên đến 2,5 tỷ bảng Anh, gấp 8 lần giá trị tài sản thể hiện trên sổ sách kế toán của Rowntree vào thời điểm mua bán. Một phần quan trọng ...

Trả lời phỏng vấn báo Sài Gòn đầu tư tài chính về Thương hiệu Việt

Thương hiệu Việt có chăng? 1/ Theo anh, từ sau 1975 cho đến nay đâu là thời điểm mà các doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu chú ý đến việc xây dựng thương hiệu. Và cho đến nay việc xây dựng thương hiệu đã được các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm như thế nào? Thế mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam khi phát triển thương hiệu là gì? Sau năm 1975, Việt Nam theo đuổi nền kinh tế tập trung đến hết năm 1986 thì chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, từ chủ trương của Bộ chính trị đến các chính sách triển khai nên khoản từ năm 1988 trở đi mới bắt đầu xuất hiện kinh tế dân doanh và đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, giai đoạn đầu của chuyển đổi sang kinh tế đa thành phần, doanh nghiệp chỉ tập trung giải quyết bài toán sản xuất để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đang thiếu thốn nghiêm trọng nên nhưng vấn đề và marketing, thương hiệu chưa được nói đến. Manh nha vấn đề thương hiệu bắt đầu xuất hiện trong những dự án liên doanh giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài....