Skip to main content

Thấy và ngẫm!


chừng nào người dân còn chưa thấy được quyền lực của mình, và chưa tin tưởng vào khả năng thực thi quyền lực của mình thì chống tham nhũng cũng chỉ là những khẩu hiệu mà thôi.


Rời khỏi lớp lúc 15 giờ, Marry Nguyen, một người Mỹ gốc Việt, vội ra xe để kịp đến buổi giảng tại trường đại học UMass. Hôm nay, Marry Nguyen phải tham dự một chuyên đề về phương pháp giảng dạy bậc Trung học do Michael Nichoson, một giáo sư danh tiếng trình bày. Để tham dự buổi hội thảo này, Marry Nguyen phải đóng mức phí tham dự là 500 đô la Mỹ. Hội thảo có khoảng hơn 20 người tham gia, toàn bộ đều là giáo viên. Phần lớn họ đến từ Boston, vài người trong số họ đến từ tiểu bang New Jersey, Virginia, New York. Buổi hội thảo diễn ra rất sôi nổi, diễn giả và thính giả tham gia thảo luận rất nhiều về phương pháp giảng dạy do Giáo sư Michael đã nghiên cứu trong vòng ba năm qua và các tình huống thực tiễn của các giáo viên tham gia. Đến 9 giờ tối, Marry mới có thể rời khỏi Hội thảo. Phải gần 45 phút lái xe, Marry mới về đến nhà.

Marry Nguyen đang là giáo viên dạy sinh vật và toán tại trường Trung học Quincy, Boston. Sẽ không có gì đáng nói nếu khoảng tiền lệ phí tham dự buổi Hội thảo là 500 đô la Mỹ. Hội thảo có khoảng hơn 20 người tham gia, toàn bộ đều là giáo viên. Phần lớn họ đến từ Boston, vài người trong số họ đến từ tiểu bang New Jersey, New York, Virginia. Buổi hội thảo diễn ra rất sôi nổi, diễn giả và thính giả tham gia thảo luận rất nhiều về phương pháp giảng dạy do Giáo sư Michael đã nghiên cứu trong vòng ba năm qua và các tình huống thực tiễn của các giáo viên tham gia. Đến 9 giờ tối, Marry mới có thể rời khỏi Hội thảo. Phải gần 45 phút lái xe, Marry mới về đến nhà.

Marry Nguyen đang là giáo viên dạy sinh vật và toán tại trường Trung học Quincy, Boston. Sẽ không có gì đáng nói nếu khoảng tiền lệ phí tham dự buổi Hội thảo là được đóng từ tiền của Marry và theo quy định hành chánh, thì ngày làm việc của Marry tại trường là từ 9 giờ sáng đến 3 giờ chiều. Mỗi năm, Marry Nguyen tham dự khoảng mươi chương trình đào tạo nâng cao từ ngắn hạn (dạng buổi hội thảo trên) hoặc dài hạn hơn, đôi khi kéo dài cả tháng, nhất là vào dịp hè. Những nỗ lực của Marry Nguyen, nói cho cùng, xuất phát từ nhu cầu muốn tồn tại. Hợp đồng lao động giữa Marry với trường sẽ được xem xét lại vào mỗi cuối năm học. Hàng năm, trong trường luôn phải có khoảng 10% giáo viên bị thanh lý hợp đồng để thay vào đó bởi các giáo viên mới. Lý do của việc kết thúc hợp đồng với giáo viên không ngoài 2 nguyên nhân chính:

1. Năng lực của giáo viên: Được đánh giá bởi thành tích học tập của học sinh, bởi ban giám hiệu trường

2. Sự dịch chuyển của chương trình đào tạo: hàng năm, luôn có phần đánh giá lại chương trình đào tạo dựa trên nhu cầu của xã hội và có những điều chỉnh tương ứng để đáp ứng nguồn lực cho xã hội. Chính các giáo viên, phải lựa chọn những chương trình có tính thích ứng với nhu cầu xã hội nếu không muốn bì đào thải.
Cả hai nguyên nhân trên tạo nên năng lực cạnh tranh của một trường. Sẽ chẳng có rủi ro mất việc nào phát sinh nếu các trường không cạnh tranh lẫn nhau để thu hút học sinh. Giáo dục ở Mỹ được phổ cập đến bậc Trung học. Học sinh trong độ tuổi phải có nghĩa vụ đi học và người học không phải đóng bất kỳ khoảng tiền nào. Vá các trường phải cạnh tranh với nhau để có thể thu hút được học sinh. Nguồn thu của trường được cấp từ chính phủ dựa trên số học sinh trường thu hút được.

Tương tự như vậy cho tất cả những công chức khác tại Hoa Kỳ. Việc một công chức có tồn tại hay không tồn tại trong bộ máy công quyền được đặt trên thước đo cạnh tranh. Ngân sách là chiếc đũa thần duy nhất để điều phối. Và duy nhất chỉ có công dân, những người trả lương để bộ máy công chức hình thành là có quyền quyết định ngân sách được chảy về đâu, cho mục tiêu gì. Một hệ thống luật pháp cho phép người dân thấy được quyền lực của mình và tin vào tính khả thi trong việc thực thi quyền lực sẽ trả công chức về đúng vị trí trong mối quan hệ với công dân.

Ngẫm lại ở nước ta, chừng nào người dân còn chưa thấy được quyền lực của mình, và chưa tin tưởng vào khả năng thực thi quyền lực của mình thì chống tham nhũng cũng chỉ là những khẩu hiệu mà thôi.

Sài Gòn, August 17, 2006
Đoàn Đình Hoàng
BrandAscend consulting

Comments

Popular posts from this blog

Thị trường bia, thời của tay chơi

Tay chơi nào trụ hạng? Trong cái nắng Sài Gòn tháng Tư oi người, các băng rôn quảng cáo “Zorok, hai loại lúa mạch, một vị bia” góp phần làm nóng thêm áp lực cạnh tranh trong thị trường bia tại Việt Nam. Với một thị trường có sức tăng trưởng 2 con số và sức tiêu thụ bia đầu người năm chỉ mới 18 lít/người (2006) còn ở mức thấp so với trung bình của thế giới quả có sức hấp dẫn mạnh mẽ cho bất kỳ doanh nghiệp nào. Theo quy hoạch tổng thể ngành bia - rượu - nước giải khát của Bộ Công nghiệp được phê duyệt tại Quyết định 18/2007/QĐ-BCN, ngày 08/5/2007, sản lượng bia của Việt Nam năm 2005 là 1,53 tỷ lít và sẽ gia tăng lên đến 3,5 tỷ lít vào năm 2010, mức đầu tư tương ứng trong giai đoạn từ 2005 đến 2010 là 31,809 tỷ đồng. Xem thêm đồ thị về quy hoạch ngành bia Việt Nam đến năm 2010 của Bộ công nghiệp . Trước hết, xin được điểm qua một vài gương mặt điển hình làm nên bức tranh ngành bia Việt Nam. Lâu đời và danh tiếng phải kể đến Sabeco, tổng công ty bia – rượu – nước

Định
 vị 
Việt 
Nam


Việt
 Nam
 ở
 đâu 
trong 
bản 
đồ 
thế 
giới?
 Câu 
hỏi
 trở 
nên 
nóng 
bỏng 
hơn
 bao 
giờ 
hết vì 
quá 
trình 
toàn 
cầu 
hoá 
diễn 
ra 
ngày 
càng 
mạnh 
mẽ 
và 
sâu 
rộng.
Chắc 
chắn,
“ở đâu”
 hoàn 
toàn
 không 
là 
vị 
trí 
địa 
lý 
mà 
là 
trong 
chuỗi 
giá 
trị 
toàn 
cầu,
trong 
tâm
 trí
 người 
tiêu 
dùng 
thế 
giới. 
 Không 
hẹn 
mà 
gặp,
 Philip 
Kotler,
một 
chuyên 
gia 
tiếp
 thị
 tầm
 cỡ
 thế 
giới,
 và 
như 
mới 
đây 
với 
Michael 
Porter,
 chiến 
lược 
gia 
hàng 
đầu 
thế
 giới, cùng đặt ra câu hỏi này cho Việt Nam. Ai cũng biết một quốc gia cần xác định cho mình một chỗ đứng độc đáo trong nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Toàn cầu hoá, một thuật ngữ không còn xa lạ ngay cả với người nông dân Việt Nam. “Bếp ăn thế giới” ý của Philip Kotler, hay “nông nghiệp – thuỷ sản” từ Michael Porter chỉ là hai gợi ý có tính tham khảo (vì thực sự các chuyên gia bậc thầy này chưa nhận được một đơn hàng chính thức cho việc xây dựng định vị Việt Nam). Tuy nhiên, mộ

Tình huống trà xanh Không độ và C2

Trà xanh đóng chai (Ready-to-drink) trở thành một chủ đề được thảo luận nhiều trong thời gian gần đây. Quan sát các sự kiện liên quan đến loại sản phẩm này, chúng ta có thể rút ra được những kinh nghiệm quý báu cho hoạt động truyền thông thương hiệu. Bài viết được phân tích dưới góc độ hơi thiên về chiến lược marketing thông qua quan sát và khảo cứu của tác giả từ các thông tin thu thập từ nhiều nguồn và các điều tra trực tiếp với người tiêu dùng với quy mô nhỏ để phục vụ cho luận điểm của bài viết. Bài viết, do vậy, nên được nhìn nhận dưới góc độ quan điểm của người hành nghề marketing và mong muốn được chia xẻ các ý kiến của bạn đọc về vấn đề này. Trà xanh là một thứ thức uống phổ biến trên thế giới từ hàng ngàn năm nay, đặc biệt là khu vực châu Á như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v. Tại một số quốc gia, uống trà còn được nâng lên thành nghệ thuật và với những nghi thức đặc biệt, phức tạp. Cuộc sống hiện đại thúc đẩy ngành công nghiệp nước uống tiện dụng phát triển mạnh