Những ngày cuối tháng 4 này, kinh tế miền Trung đang nóng lên với hàng loạt phân tích về sự phát triển và có cả một hội thảo cấp quốc gia về sự phát triển kinh tế miền Trung.
Những vấn đề cơ bản nêu lên vẫn quay quanh việc quy hoạch vùng, tính địa phương trong phát triển, thiếu nguồn nhân lực, v.v Trong khi chờ đợi những quy hoạch vĩ mô của Nhà nước, sự phối hợp giữa các Bộ ngành, người dân miền Trung vẫn phải một nắng hai sương đối đầu với nền kinh tế thị trường.
Bài viết khi đến thăm cánh đồng Châu Phú, An Giang đăng trên TB KTSG số 7-2006 tưởng cũng còn nguyên ý nghĩa. Gửi lên Blog để chia xẻ với bạn đọc.
Đến Châu Phú, An Giang, nhìn cánh đồng lúa bạt ngàn đang thì con gái xanh mượt, đều tăm tắp nhưng trên bờ vẫn còn những căn chòi lá của nông dân, lòng tôi bỗng chùng xuống. Nông dân của Hợp tác xã Chuyên canh lúa Châu Phú cho biết vùng này trồng lúa hai vụ và năng suất cả năm đạt khoảng 15 tấn/héc ta. Những người nông dân cần mẫn, ham học hỏi của cả nước đã đóng góp trên 5 triệu tấn gạo xuất khẩu trong năm 2005. Những tưởng với thành tích như vậy nông dân sẽ được đổi đời, nhưng thực tế cuộc sống của họ chỉ ở mức thoát nghèo, còn viễn cảnh sống sung túc vẫn xa vời.
Nguyên nhân là giá cả vật tư nông nghiệp tăng, còn giá lúa lại lên xuống thất thường. Nông dân đã gắng hết sức trên cánh đồng, lập nên kỳ tích về sản lượng. Nhưng vì sao đời sống vẫn chưa sung túc? Có lẽ đó là phần trách nhiệm của chính quyền, các nhà khoa học, các nhà doanh nghiệp trong việc xây dựng thương hiệu cho hạt gạo An Giang nói riêng, hay hạt gạo Việt Nam nói chung. Việc xây dựng thương hiệu cho gạo An Giang phải bắt đầu từ thị trường nội địa. Doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng thương hiệu cho hạt gạo, chỉ có họ mới có thể nắm bắt chính xác những yêu cầu khắt khe của người tiêu dùng để đáp ứng, xây dựng được mạng lưới phân phối, tổ chức những đợt quảng cáo, quảng bá hấp dẫn và đưa ra hàng loạt kỹ năng tiếp cận khách hàng.
Nhà nước chỉ giữ vai trò cầm cân nảy mực, tạo ra sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh chứ không thể làm thay doanh nghiệp. Vai trò của chính quyền là đầu tư vào hạ tầng, giao thông, thủy lợi, trường học để nâng cao trình độ người dân, vào chính sách hạn điền, chính sách tín dụng... Chỉ có dòng chảy vốn từ ngân hàng sang doanh nghiệp trong cơ chế cạnh tranh mới phát huy tối đa sức mạnh của đầu tư. Chỉ có doanh nghiệp, chứ không phải cán bộ tín dụng, mới có thể bám sát nông dân để biết rõ khi nào cần hỗ trợ vốn để họ mua phân bón, thuốc trừ sâu, trả chi phí nhân công... và cũng chính doanh nghiệp mới biết cách thu hồi đồng vốn đã bỏ ra một cách tốt nhất.
Bài viết được sự đồng cảm của chính người nông dân. Lê Ngọc Bích, ấp 1, xã Phước Hưng, An Phú, An Giang đã gửi bài Nói hộ nông dân chúng tôi. Bài đăng trên TB KTSG số 24-2006
Tôi là một nông dân học ít nhưng vì cảm xúc bài viết Xây dựng thương hiệu gạo để nâng mức sống của nông dân của tác giả Đoàn Đình Hoàng (TBKTSG số 7-2006) nên viết lá thư này để cám ơn tác giả. Bài viết đã nói hộ nông dân chúng tôi những điều mà chúng tôi muốn nói mà không nói được. Tác giả biểu lộ sự chua xót, đồng cảm với chúng tôi khi viết “những tưởng với thành tích như vậy nông dân sẽ được đổi đời, nhưng thực tế... viễn cảnh sống sung túc vẫn xa vời”. Tiếc là bài viết quá ngắn. Đã lâu rồi tôi mới được đọc một bài báo nhận xét về nông dân chúng tôi cũng như nêu hướng đi cho hạt gạo Việt Nam. Phải chăng đời sống của người nông dân với sự thua thiệt về mọi mặt là một đề tài khó viết?
Tôi nghĩ một tỉnh có tới 80% người dân sống dựa vào nông nghiệp thì có nên xem nông nghiệp là mấu chốt của sự phát triển tỉnh không? Sự phát triển của tỉnh có nên gắn chặt với thu nhập của 80% nông dân này không? Những người nông dân làm ra hạt lúa, đưa đất nước đứng hàng thứ hai về xuất khẩu gạo trên thế giới nhưng không biết được mình sẽ bán 1 ki lô gam lúa với giá bao nhiêu? Trong khi đó, giá vật tư nông nghiệp lại tăng dần theo thời gian sinh trưởng của cây lúa. Chúng tôi muốn đề nghị doanh nghiệp đừng nói hạt gạo Việt Nam kém chất lượng mà nên có kế hoạch xây dựng thương hiệu gạo giúp nông dân. Dựa vào đặc điểm của nông nghiệp tỉnh và đặc thù từng vùng mà xây dựng kế hoạch để hạt gạo có chất lượng và thương hiệu riêng. Thí dụ: doanh nghiệp chọn một vùng, một khu vực thích hợp ký hợp đồng với nông dân, giao giống, hướng dẫn kỹ thuật, giám sát việc trồng trọt và thu mua lúa cuối vụ. Có như vậy thì qua một vụ mùa đạt hiệu quả, nhiều nông dân sẽ tự nguyện ký hợp đồng với doanh nghiệp.
Vừa qua, tôi mang ba triệu đồng đến Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện An Phú để trả nợ. Vào cửa đã thấy trên 20 nông dân đứng ngồi chờ trả nợ mặc dù mới 13 giờ 30. Tôi và họ trông thật tội nghiệp với dáng vẻ nhà quê, gương mặt thô kệch, đầy vẻ chịu đựng. Họ cũng như tôi phải khó khăn lắm mới bán được lúa vì công ty không thu lúa nên nhiều thương lái không chịu mua. Có người kể chuyện, “Hồi nãy thay vì đứng bên này đường đón xe buýt đi xuống An Phú mà lại đứng lộn bên kia, nên đi ngược lên Khánh Bình, phải la lên để xe ngừng lại cho xuống...”. Họ kể lại sự nhầm lẫn một cách hồn nhiên và cười. Chính họ, những người nông dân đã góp phần đưa Việt Nam lên hàng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo đó.
Dường như chúng ta quan tâm với nông dân chỉ dừng lại ở mức độ hội thảo
Đoàn Đình Hoàng
Brandascend
Comments
Post a Comment