Skip to main content

Thấy gì qua "Chính phủ Malaysia “bỏ mặc” Proton"


"Chính phủ Malaysia “bỏ mặc” Proton" là tựa một bài báo đăng trên dantri.com.vn hôm nay. Sự việc không có gì ầm ĩ nếu chúng ta biết rằng Proton là đứa con cưng của Chính phủ Malaysia. Từ những năm đầu của thập niên 80s, Chính phủ Malaysia đã mong muốn gầy dựng ngành công nghiệp ô tô Malaysia. Bằng việc liên kết với Misubishi, thương hiệu xe Malaysia, Proton xuất xưởng chiếc xe đầu tiên vào ngày 27/6/1984. Với hàng loạt sự trợ giúp của chính phủ Mahathir bằng cách hỗ trợ tiêu thụ, hàng rào quan thuế, trợ giúp tài chính, v.v Proton không chỉ là thương hiệu xe hơi số một tại Mã Lai mà còn từng bước xuất khẩu sang châu Âu và các nước trong khu vực. Sản lượng Proton tăng trưởng một cách thần kỳ, 150 ngàn xe năm 1989, 200 ngàn xe năm 1990, 300 ngàn xe năm 1991, v.v Chuỗi thành tích đó không che dấu được điểm yếu cốt tử của chính sách bảo hộ. Và sẽ không có gì ngạc nhiên khi thông tin "chính phủ bỏ mặc Proton" như chúng ta vừa đề cập trên.

Nhìn lại nền công nghiệp ô tô Việt Nam, bài học này còn nguyên giá trị. Sau gần 20 năm ưu tiên phát triển công nghiệp ô tô. Cái được lớn nhất có lẽ là sự hiện diện trên chục nhà sản xuất ô tô khắp thế giới từ Nhật, Đức, Mỹ, Mã, v.v trên đất Việt Nam. Còn về công nghệ sản xuất ô tô thì vẫn còn ở dạng IKD với phần giá trị gia tăng tại Việt Nam chỉ ở công đoạn sơn tĩnh điện và các trang thiết bị bằng nhựa, dây điện, lao động láp ráp. Phần linh hồn của động cơ là máy động lực và nguyên liệu thép vẫn còn nhập khẩu tận trời Âu, trời Nhật xa xôi. Và một thành tích tuyệt vời nữa của "Bảo hộ" ô tô chính là tiêu chuẩn môi trường, an toàn đứng hàng đầu thế giới (tính từ dưới lên) nên khả năng xuất khẩu xe hơi Việt Nam càng thêm mờ mịt. Rồi đây, nguồn lực vốn đã hiếm hoi của một nước nghèo như Việt Nam lại phải gồng mình gánh chịu những hậu quả do ô nhiễm môi trường, xử lý rác thải công nghiệp do ô tô lắp ráp mang lại.

Ngẫm chuyện Proton của Mã Lai, mới thấy hết ý nghĩa "ưu việt" của "bảo hộ" khi mà mới đây, thêm một đề án của ngành điện lại gây xôn xao dư luận.

Lòng tự dặn, phải sớm trang bị cho con trẻ một tinh thần trường kỳ trả nợ để khỏi phải "stress" khi lớn lên.


Đoàn Đình Hoàng
BrandAscend Consulting
June 15, 2007

Comments

Popular posts from this blog

Thị trường bia, thời của tay chơi

Tay chơi nào trụ hạng? Trong cái nắng Sài Gòn tháng Tư oi người, các băng rôn quảng cáo “Zorok, hai loại lúa mạch, một vị bia” góp phần làm nóng thêm áp lực cạnh tranh trong thị trường bia tại Việt Nam. Với một thị trường có sức tăng trưởng 2 con số và sức tiêu thụ bia đầu người năm chỉ mới 18 lít/người (2006) còn ở mức thấp so với trung bình của thế giới quả có sức hấp dẫn mạnh mẽ cho bất kỳ doanh nghiệp nào. Theo quy hoạch tổng thể ngành bia - rượu - nước giải khát của Bộ Công nghiệp được phê duyệt tại Quyết định 18/2007/QĐ-BCN, ngày 08/5/2007, sản lượng bia của Việt Nam năm 2005 là 1,53 tỷ lít và sẽ gia tăng lên đến 3,5 tỷ lít vào năm 2010, mức đầu tư tương ứng trong giai đoạn từ 2005 đến 2010 là 31,809 tỷ đồng. Xem thêm đồ thị về quy hoạch ngành bia Việt Nam đến năm 2010 của Bộ công nghiệp . Trước hết, xin được điểm qua một vài gương mặt điển hình làm nên bức tranh ngành bia Việt Nam. Lâu đời và danh tiếng phải kể đến Sabeco, tổng công ty bia – rượu – nước

Định
 vị 
Việt 
Nam


Việt
 Nam
 ở
 đâu 
trong 
bản 
đồ 
thế 
giới?
 Câu 
hỏi
 trở 
nên 
nóng 
bỏng 
hơn
 bao 
giờ 
hết vì 
quá 
trình 
toàn 
cầu 
hoá 
diễn 
ra 
ngày 
càng 
mạnh 
mẽ 
và 
sâu 
rộng.
Chắc 
chắn,
“ở đâu”
 hoàn 
toàn
 không 
là 
vị 
trí 
địa 
lý 
mà 
là 
trong 
chuỗi 
giá 
trị 
toàn 
cầu,
trong 
tâm
 trí
 người 
tiêu 
dùng 
thế 
giới. 
 Không 
hẹn 
mà 
gặp,
 Philip 
Kotler,
một 
chuyên 
gia 
tiếp
 thị
 tầm
 cỡ
 thế 
giới,
 và 
như 
mới 
đây 
với 
Michael 
Porter,
 chiến 
lược 
gia 
hàng 
đầu 
thế
 giới, cùng đặt ra câu hỏi này cho Việt Nam. Ai cũng biết một quốc gia cần xác định cho mình một chỗ đứng độc đáo trong nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Toàn cầu hoá, một thuật ngữ không còn xa lạ ngay cả với người nông dân Việt Nam. “Bếp ăn thế giới” ý của Philip Kotler, hay “nông nghiệp – thuỷ sản” từ Michael Porter chỉ là hai gợi ý có tính tham khảo (vì thực sự các chuyên gia bậc thầy này chưa nhận được một đơn hàng chính thức cho việc xây dựng định vị Việt Nam). Tuy nhiên, mộ

Tình huống trà xanh Không độ và C2

Trà xanh đóng chai (Ready-to-drink) trở thành một chủ đề được thảo luận nhiều trong thời gian gần đây. Quan sát các sự kiện liên quan đến loại sản phẩm này, chúng ta có thể rút ra được những kinh nghiệm quý báu cho hoạt động truyền thông thương hiệu. Bài viết được phân tích dưới góc độ hơi thiên về chiến lược marketing thông qua quan sát và khảo cứu của tác giả từ các thông tin thu thập từ nhiều nguồn và các điều tra trực tiếp với người tiêu dùng với quy mô nhỏ để phục vụ cho luận điểm của bài viết. Bài viết, do vậy, nên được nhìn nhận dưới góc độ quan điểm của người hành nghề marketing và mong muốn được chia xẻ các ý kiến của bạn đọc về vấn đề này. Trà xanh là một thứ thức uống phổ biến trên thế giới từ hàng ngàn năm nay, đặc biệt là khu vực châu Á như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v. Tại một số quốc gia, uống trà còn được nâng lên thành nghệ thuật và với những nghi thức đặc biệt, phức tạp. Cuộc sống hiện đại thúc đẩy ngành công nghiệp nước uống tiện dụng phát triển mạnh