Skip to main content

Bàn thêm về "cần sớm miễn học phí ở trường công"


Bài viết "cần sớm miễn học phí ở trường công" cuả tác giả Trần Hữu Quang (THQ), Tuổi Trẻ ngày 14-11 gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ.



Với các dữ liệu dẫn chứng đầy sức mạnh, tác giả đã làm bậc ra một câu hỏi mà giới lãnh đạo vô tình hay cố tình quên "miễn học phí". Giáo dục là quốc sách,và những người điều hành đã dựa vào đó để đàm phán với các vị dân biểu về "mức tăng" học phí dưới chiêu bài "xã hội hoá". Hai đề xuất, hai cơ sở lập luận:

(1) Trong 18 năm (1990-2007), học sinh sinh viên tăng gần 2 lần và đâu tư cho giáo dục tăng gần 34 lần (THQ); Cần một thanh tra toàn diện ngành giáo dục và miễn học phí ở trường công;

(2) Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Trần Văn Nhung, trong hội thảo “Nâng cao nhận thức về thập kỷ giáo dục vì phát triển bền vững” khai mạc sáng 15-11 (1 ngày sau bài viết THQ) tại TP.HCM lại cho rằng, mức chi ngân sách cho giáo dục ở Việt Nam còn năm ở ngưỡng thấp theo khuyến cáo Unesco (chưa đến 6% trong năm 2005-2006).


Cùng nhận thức về vai trò quan trọng của giáo dục, cùng âu lo về thực trạng giáo dục, hai dể xuất lại trái ngược nhau hoàn toàn. Điều này cũng chẳng có gì lạ, nhất là trong khoa học quản lý. Điều đáng buồn là những phản biện xã hội dường như chưa từng hiện diện trong chính trường, nơi tiếng nói của người dân trong xã hội dân chủ, chí ít cũng được phải được đề đạt và được tranh luận minh bạch với những người điều hành đất nước.


Người dân đã thấy, đã nghe lý do tại sao phải thắt lưng buộc bụng để cùng gánh vác với ngành giáo dục thì cũng có quyền được biết 34 lần ngân sách tăng lên đi đâu về đâu? Bao nhiêu trong số đó là do những thử nghiệm hết nhiệm kỳ Bộ trưởng này đến nhiệm kỳ Bộ trưởng khác? Bao nhiêu trong số đó là những đầu tư lãng phí cho lãng phí trong thi cử, trong "bằng thật, học giả", trong độc quyền sách giáo khoa, ... trong những quyết sách sai lầm của nhà quản lý giáo dục?


Mong lắm thay lương tâm và trách nhiệm của các "ông Nghị"

Saigon, Nov 17th 2007
Doan Dinh Hoang
Brand Ascen Consulting

Comments

Popular posts from this blog

Thị trường bia, thời của tay chơi

Tay chơi nào trụ hạng? Trong cái nắng Sài Gòn tháng Tư oi người, các băng rôn quảng cáo “Zorok, hai loại lúa mạch, một vị bia” góp phần làm nóng thêm áp lực cạnh tranh trong thị trường bia tại Việt Nam. Với một thị trường có sức tăng trưởng 2 con số và sức tiêu thụ bia đầu người năm chỉ mới 18 lít/người (2006) còn ở mức thấp so với trung bình của thế giới quả có sức hấp dẫn mạnh mẽ cho bất kỳ doanh nghiệp nào. Theo quy hoạch tổng thể ngành bia - rượu - nước giải khát của Bộ Công nghiệp được phê duyệt tại Quyết định 18/2007/QĐ-BCN, ngày 08/5/2007, sản lượng bia của Việt Nam năm 2005 là 1,53 tỷ lít và sẽ gia tăng lên đến 3,5 tỷ lít vào năm 2010, mức đầu tư tương ứng trong giai đoạn từ 2005 đến 2010 là 31,809 tỷ đồng. Xem thêm đồ thị về quy hoạch ngành bia Việt Nam đến năm 2010 của Bộ công nghiệp . Trước hết, xin được điểm qua một vài gương mặt điển hình làm nên bức tranh ngành bia Việt Nam. Lâu đời và danh tiếng phải kể đến Sabeco, tổng công ty bia – rượu – nước

Định
 vị 
Việt 
Nam


Việt
 Nam
 ở
 đâu 
trong 
bản 
đồ 
thế 
giới?
 Câu 
hỏi
 trở 
nên 
nóng 
bỏng 
hơn
 bao 
giờ 
hết vì 
quá 
trình 
toàn 
cầu 
hoá 
diễn 
ra 
ngày 
càng 
mạnh 
mẽ 
và 
sâu 
rộng.
Chắc 
chắn,
“ở đâu”
 hoàn 
toàn
 không 
là 
vị 
trí 
địa 
lý 
mà 
là 
trong 
chuỗi 
giá 
trị 
toàn 
cầu,
trong 
tâm
 trí
 người 
tiêu 
dùng 
thế 
giới. 
 Không 
hẹn 
mà 
gặp,
 Philip 
Kotler,
một 
chuyên 
gia 
tiếp
 thị
 tầm
 cỡ
 thế 
giới,
 và 
như 
mới 
đây 
với 
Michael 
Porter,
 chiến 
lược 
gia 
hàng 
đầu 
thế
 giới, cùng đặt ra câu hỏi này cho Việt Nam. Ai cũng biết một quốc gia cần xác định cho mình một chỗ đứng độc đáo trong nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Toàn cầu hoá, một thuật ngữ không còn xa lạ ngay cả với người nông dân Việt Nam. “Bếp ăn thế giới” ý của Philip Kotler, hay “nông nghiệp – thuỷ sản” từ Michael Porter chỉ là hai gợi ý có tính tham khảo (vì thực sự các chuyên gia bậc thầy này chưa nhận được một đơn hàng chính thức cho việc xây dựng định vị Việt Nam). Tuy nhiên, mộ

Tình huống trà xanh Không độ và C2

Trà xanh đóng chai (Ready-to-drink) trở thành một chủ đề được thảo luận nhiều trong thời gian gần đây. Quan sát các sự kiện liên quan đến loại sản phẩm này, chúng ta có thể rút ra được những kinh nghiệm quý báu cho hoạt động truyền thông thương hiệu. Bài viết được phân tích dưới góc độ hơi thiên về chiến lược marketing thông qua quan sát và khảo cứu của tác giả từ các thông tin thu thập từ nhiều nguồn và các điều tra trực tiếp với người tiêu dùng với quy mô nhỏ để phục vụ cho luận điểm của bài viết. Bài viết, do vậy, nên được nhìn nhận dưới góc độ quan điểm của người hành nghề marketing và mong muốn được chia xẻ các ý kiến của bạn đọc về vấn đề này. Trà xanh là một thứ thức uống phổ biến trên thế giới từ hàng ngàn năm nay, đặc biệt là khu vực châu Á như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v. Tại một số quốc gia, uống trà còn được nâng lên thành nghệ thuật và với những nghi thức đặc biệt, phức tạp. Cuộc sống hiện đại thúc đẩy ngành công nghiệp nước uống tiện dụng phát triển mạnh