Skip to main content

Bức tranh marketing chiến lược ở VN

Khái niệm marketing thì nhiều doanh nghiệp đã biết. Nhưng sử dụng và định hướng như thế nào không phải là điều đơn giản.

Ngày nay, khái niệm marketing được dùng khá phổ biến tại Việt Nam thông qua các hoạt động truyền thông trên báo, truyền hình và các sự kiện được kích hoạt. Tuy nhiên, marketing chiến lược là vấn đề khá mới đối với doanh nghiệp Việt Nam. Áp dụng cách thức này như thế nào để đạt được những kết quả cụ thể cho doanh nghiệp vẫn còn là điều cần phải bàn thảo kỹ.



Vinamilk, đã sử dụng marketing chiến lược để đạt được vị thế của mình tại Việt Nam.

Thế nào là marketing chiến lược?
“Marketing chiến lược liên quan đến việc xác định các mục tiêu tiếp thị, phát triển và thực hiện chương trình tiếp thị. Quá trình tiếp thị liên quan đến việc phân tích chiến lược tiếp thị, phân tích tình hình tiếp thị, xây dựng một chiến lược tiếp thị, chương trình phát triển thị trường, thực hiện và quản lý các chiến lược tiếp thị”, ông Đoàn Đình Hoàng một chuyên gia có kinh nghiệm về marketing chia sẻ.

Cũng theo ông Hoàng, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam lại áp dụng “marketing triển khai hỗ trợ bán hàng thay cho marketing chiến lược”.

Bà Nguyễn Thị Phi Vân, Chuyên gia Tư vấn Tiếp thị Thương hiệu, phụ trách thị trường Gloria Jeans’ Coffees thì cho rằng: “Để thực hiện thành công chiến lược lấy thị trường làm nền tảng, doanh nghiệp cần xây dựng được chuỗi giá trị cao cho khách hàng qua hiểu biết thị trường mục tiêu, khách hàng mục tiêu, và đối thủ cạnh tranh. Bên cạnh đó, công ty cần phải xác định và cam kết xây dựng năng lực bên trong nhằm đáp ứng đúng và đủ cho quá trình xây dựng chuỗi giá trị này”.

Ông Phạm Việt Anh, một người có kinh nghiệm trong việc phát triển các thương hiệu nổi tiếng tại Việt Nam, Chủ tịch Điều hành Left Brain Connectors thì cho rằng: “Quản trị tiếp thị chiến lược là việc đưa ra QUYẾT ĐỊNH những gì không nên làm, chứ không phải quyết định những gì nên làm. Quản trị tiếp thị chiến lược là khả năng phân tích từ lợi thế cạnh tranh, năng lực cạnh tranh đến tính cạnh tranh của toàn hệ thống để đưa ra những chiến lược ‘ít sai lầm’ nhất”.

“Quản trị tiếp thị là hoạt động quản trị bởi tất cả mọi người. Và cũng giống như quản trị kinh doanh, hoạt động quản trị tiếp thị phải có đo lường”, ông Anh chia sẻ thêm.


Những kết quả khi áp dụng marketing chiến lược
Khi chúng tôi hỏi về những kết quả đạt được khi áp dụng marketing chiến lược, ông Việt Anh của Left Brain Connectors cho rằng, khi áp dụng phương pháp này sẽ: “Đảm bảo lãi gộp trước chi phí vận hành chung của doanh nghiệp tốt hơn đối thủ cạnh tranh (brand premium), bởi nếu thành công bằng việc bán rẻ hơn đối thủ thì tính ứng dụng của ‘sáng tạo tiếp thị’ sẽ không thực sự phát huy”.

Ông Việt Anh cho rằng, hầu hết các công ty lớn trên thế giới đều có ý thức và áp dụng thành công mô hình này. Những công ty ông kể ra là: Unilever, P&G, Pepsi, Starbucks…

Bà Phi Vân, một người có kinh nghiệm trong ngành FMCG thì đưa ra trường hợp của P&G. Theo bà, “vào những năm 1990, P&G do chậm trễ trong việc triển khai phương hướng chiến lược lấy thị trường làm nền tảng đã mất đi vị thế dẫn đầu của mình trên thị trường tã giấy và kem đánh răng, dẫn đến việc giá trị cổ phiếu giảm 43%, sự phát triển công ty bị chựng lại và lợi nhuận ngày càng giảm sút. Trước tình hình khó khăn trên, mùa hè năm 2000, công ty P&G quyết định thay đổi lãnh đạo và bổ nhiệm ông A. G. Lafley vào vị trí CEO với hy vọng tái cấu trúc công ty. Quả nhiên, vị CEO mới đã nhanh chóng áp dụng phương hướng chiến lược lấy thị trường nền tảng, qua đó lấy lại vị thế cạnh tranh của P&G trên thị trường”.

“Chiến lược tiếp thị là một quá trình phát triển chiến lược bằng việc thường xuyên xem xét môi trường tiếp thị và sự hài lòng của khách hàng. Nó cung cấp cho một công ty lợi thế cạnh tranh so với đối thủ của mình”, đó là những kết quả mà theo ông Hoàng khi áp dụng marketing chiến lược đúng sẽ đem lại kết quả.


Việt Nam đã ứng dụng marketing chiến lược như thế nào?
Cũng theo ông Hoàng, câu chuyện marketing ở Việt Nam chỉ manh nha từ năm 2006 khi mà Việt Nam gia nhập WTO. Do vậy, marketing chiến lược tại Việt Nam cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay.

“Kinh tế Việt Nam suốt một thời gian dài từ năm 1975 đến năm 1986 là nền kinh tế tập trung bao cấp, marketing là khái niệm chưa từng hiện diện. Sau năm 1986, kinh tế các thành phần được phép hiện diện nhưng trong giai đoạn đầu chủ yếu là tập trung vào sản xuất để đáp ứng sự thiếu hụt phía cung nên dấu ấn marketing cũng hiện diện rất mờ nhạt. Marketing ở Việt Nam trở nên quan trọng và thực sự được quan tâm mạnh mẽ có lẽ khoảng từ thời điểm Việt Nam gia nhập WTO (2006)”.

Cũng đồng tình với quan điểm này, ông Việt Anh của Left Brain Connectors nói: “Nhìn chung, ở Việt Nam hiện nay, tính ứng dụng mô hình quản trị tiếp thị chiến lược còn thấp. Chỉ một số ít những công ty như ICP, THP, Vinamilk… là có ứng dụng phương pháp quản trị tiếp thị chiến lược”.

“Nếu chỉ nhìn vào việc chuẩn bị ngân sách cho công tác nghiên cứu thị trường (hiện còn rất thấp) là có thể nhận ra vấn đề. Trong quá trình xây dựng chiến lược, việc nghiên cứu thị trường được coi là việc không thể bỏ qua. Tất cả các chiến lược ít sai lầm nhất đều phải bắt đầu từ việc thấu hiểu khách hàng mục tiêu một cách tốt nhất”, ông Anh chia sẻ.


X-men, là một trường hợp thành công điển hình trong marketing chiến lược.


Như vậy, có thể nói, nếu doanh nghiệp nào khéo ứng dụng marketing chiến lược thì kết quả tạo ra sẽ rất tích cực. Và khả năng thành công sẽ rất cao.
Chắc hẳn mọi người còn nhớ đến trường hợp X-men. Đây là một trường hợp điển hình về áp dụng marketing chiến lược. Khi thị trường dầu gội chưa “chia” giới tính thì việc ICP tung ra khái niệm: “Đàn ông phải có dầu gội của đàn ông. Đó mới là đàn ông đích thực” chính là một chiến lược đã mở ra một “đại dương xanh” cho ngành hàng này. Hiện nay, nếu ta điểm qua thị trường Việt Nam sẽ thấy các ông lớn như Unilever, P&G cũng đi theo bước đi này mới thấy sự hiệu quả của việc áp dụng marketing chiến lược.

Đối với ông Hoàng, Vinamilk là một điển hình thành công khi áp dụng marketing chiến lược. Ông cho rằng, ban đầu Vinamilk chỉ quan tâm đến phân phối, nhưng sau này, cái mà họ quan tâm lớn hơn chính là tạo dựng niềm tin và chất lượng, nhất là sau sự cố melamine.

“Khi đã được chấp nhận về yếu tố chất lượng, Vinamilk tiến thêm một bước xa hơn trong việc gầy dựng niềm tin khi hướng đến việc tạo nguồn sữa chủ động từ trong nước thông qua việc phát triển và hỗ trợ nông dân phát triển đàn bò sữa. Một sản phẩm muốn đảm bảo chất lượng và độ ổn định, đòi hỏi phải kiểm soát được nguyên liệu đầu vào. “Sự cố melamine” xuất hiện đã tạo ra một tác động tích cực giúp Vinamilk đi nhanh hơn khi gia tăng nhận thức người tiêu dùng về sản phẩm có chất lượng được đảm bảo. Và trong năm 2011, Vinamilk cần tiến xa hơn một bước nữa trong việc tạo niềm tin khi hợp tác với các trung tâm nghiên cứu về sữa và dinh dưỡng nổi tiếng để chủ động hơn trong việc đáp ứng nhu cầu sữa và dinh dưỡng phù hợp với người Việt Nam, tạo đặc trưng riêng của Vinamilk trong thị trường”, ông Hoàng lập luận.

Tuy nhiên, không phải lúc nào mọi thứ cũng thuận lợi. Đã có những sự thất bại cay đắng từ việc áp dụng sai marketing chiến lược như trường hợp của: Bia Laser, thời trang nam X-Series.

Lý giải về vấn đề này, ông Việt Anh cho rằng: “Nguyên nhân của thất bại là do những đề xuất giá trị (Value Propositions) chưa đủ tính hấp dẫn để khiến người mua (khách hàng) tự thuyết phục chính họ. Với X-Series có thể là lợi ích thể hiện bản thân, còn với bia Laser có thể là lợi ích lý tính – Sự thuận tiện (availability) bị hạn chế do kênh phân phối chưa khai thông”.

“Nhận thức về tầm quan trọng, mối tương quan giữa tiếp thị chiến lược và chiến lược doanh nghiệp cần được các doanh nghiệp Việt Nam tìm hiểu và đánh giá đúng trước khi đặt vấn đề quản trị tiếp thị chiến lược”, đó là lời khuyên của bà Vân.

“Vẫn chưa nhiều doanh nghiệp Việt Nam đánh giá đúng và đủ về quản trị marketing chiến lược, khi thiếu một tầm nhìn và lộ trình có tính dài hạn. Những vụ M&A (mergers and acquisitions - mua bán & sát nhập) gần đây nói lên nhiều điều về tính thiển cận khi chỉ tập trung vào marketing triển khai thay cho cam kết marketing chiến lược”, ông Hoàng phân tích. DN&PL
LÊ TÂN

Comments

Popular posts from this blog

Thị trường bia, thời của tay chơi

Tay chơi nào trụ hạng? Trong cái nắng Sài Gòn tháng Tư oi người, các băng rôn quảng cáo “Zorok, hai loại lúa mạch, một vị bia” góp phần làm nóng thêm áp lực cạnh tranh trong thị trường bia tại Việt Nam. Với một thị trường có sức tăng trưởng 2 con số và sức tiêu thụ bia đầu người năm chỉ mới 18 lít/người (2006) còn ở mức thấp so với trung bình của thế giới quả có sức hấp dẫn mạnh mẽ cho bất kỳ doanh nghiệp nào. Theo quy hoạch tổng thể ngành bia - rượu - nước giải khát của Bộ Công nghiệp được phê duyệt tại Quyết định 18/2007/QĐ-BCN, ngày 08/5/2007, sản lượng bia của Việt Nam năm 2005 là 1,53 tỷ lít và sẽ gia tăng lên đến 3,5 tỷ lít vào năm 2010, mức đầu tư tương ứng trong giai đoạn từ 2005 đến 2010 là 31,809 tỷ đồng. Xem thêm đồ thị về quy hoạch ngành bia Việt Nam đến năm 2010 của Bộ công nghiệp . Trước hết, xin được điểm qua một vài gương mặt điển hình làm nên bức tranh ngành bia Việt Nam. Lâu đời và danh tiếng phải kể đến Sabeco, tổng công ty bia – rượu – nước

Định
 vị 
Việt 
Nam


Việt
 Nam
 ở
 đâu 
trong 
bản 
đồ 
thế 
giới?
 Câu 
hỏi
 trở 
nên 
nóng 
bỏng 
hơn
 bao 
giờ 
hết vì 
quá 
trình 
toàn 
cầu 
hoá 
diễn 
ra 
ngày 
càng 
mạnh 
mẽ 
và 
sâu 
rộng.
Chắc 
chắn,
“ở đâu”
 hoàn 
toàn
 không 
là 
vị 
trí 
địa 
lý 
mà 
là 
trong 
chuỗi 
giá 
trị 
toàn 
cầu,
trong 
tâm
 trí
 người 
tiêu 
dùng 
thế 
giới. 
 Không 
hẹn 
mà 
gặp,
 Philip 
Kotler,
một 
chuyên 
gia 
tiếp
 thị
 tầm
 cỡ
 thế 
giới,
 và 
như 
mới 
đây 
với 
Michael 
Porter,
 chiến 
lược 
gia 
hàng 
đầu 
thế
 giới, cùng đặt ra câu hỏi này cho Việt Nam. Ai cũng biết một quốc gia cần xác định cho mình một chỗ đứng độc đáo trong nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Toàn cầu hoá, một thuật ngữ không còn xa lạ ngay cả với người nông dân Việt Nam. “Bếp ăn thế giới” ý của Philip Kotler, hay “nông nghiệp – thuỷ sản” từ Michael Porter chỉ là hai gợi ý có tính tham khảo (vì thực sự các chuyên gia bậc thầy này chưa nhận được một đơn hàng chính thức cho việc xây dựng định vị Việt Nam). Tuy nhiên, mộ

Tình huống trà xanh Không độ và C2

Trà xanh đóng chai (Ready-to-drink) trở thành một chủ đề được thảo luận nhiều trong thời gian gần đây. Quan sát các sự kiện liên quan đến loại sản phẩm này, chúng ta có thể rút ra được những kinh nghiệm quý báu cho hoạt động truyền thông thương hiệu. Bài viết được phân tích dưới góc độ hơi thiên về chiến lược marketing thông qua quan sát và khảo cứu của tác giả từ các thông tin thu thập từ nhiều nguồn và các điều tra trực tiếp với người tiêu dùng với quy mô nhỏ để phục vụ cho luận điểm của bài viết. Bài viết, do vậy, nên được nhìn nhận dưới góc độ quan điểm của người hành nghề marketing và mong muốn được chia xẻ các ý kiến của bạn đọc về vấn đề này. Trà xanh là một thứ thức uống phổ biến trên thế giới từ hàng ngàn năm nay, đặc biệt là khu vực châu Á như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v. Tại một số quốc gia, uống trà còn được nâng lên thành nghệ thuật và với những nghi thức đặc biệt, phức tạp. Cuộc sống hiện đại thúc đẩy ngành công nghiệp nước uống tiện dụng phát triển mạnh